Như Ăngghen từng nói về Mác: “Tên tuổi Người, sự nghiệp của Người sống mãi nghìn thu!”. Cuộc đời và hoạt động của Mác đã đi vào lịch sử nhân loại với vị trí nổi bật trong hàng ngũ những vĩ nhân.
Các Mác (Karl Marx) sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 ở thành phố Trier trên bờ sông Mozel, một nhánh của sông Rhein thuộc Trier là một thành phố cổ của Đức, thời Trung cổ. Ông đã cùng với Phriđơrich Ăngghen (Friedrich Engels) mãi mãi đi vào lịch sử nhân loại như những người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học có tác động to lớn và sâu rộng đối với nhân loại tiến bộ.
Cha của Mác là Heinrich Marx là một người cha có nhân cách khác thường, học rộng, hiểu biết khá rõ về những tác phẩm của các nhà tư tưởng Pháp thế kỷ XVIII. Ông rất yêu quý con trai, đáp lại Các Mác cũng rất gắn bó với cha. Tình cảm cha con không hề bị suy giảm ngay cả trong thời kỳ xảy ra những bất đồng quan điểm trong nhận thức về sứ mệnh cuộc đời hai cha con. Trong gia đình có bốn anh em trai và năm chị em gái thì C. Mác là người con yêu trong gia đình, là linh hồn của đám trẻ cùng lứa tuổi vì đầu óc thông minh, biết bày ra các trò chơi hấp dẫn, biết sáng tác ra đủ mọi thứ chuyện tưởng tượng.
Năm 12 tuổi C. Mác vào học trường trung học ở Trier, học giỏi, đặc biệt nổi bật ở những lĩnh vực đòi hỏi tính độc lập sáng tạo và năng lực về toán học. Từ thời học phổ thông C. Mác may mắn có những thầy tốt như thầy hiệu trưởng trung học ở Trier dạy lịch sử và triết học, thầy dạy toán và vật lý - những người theo chủ nghĩa duy vật và có xu hướng tự do. Sau khi C. Mác tốt nghiệp trung học tháng Mười năm 1835, Mác vào trường Đại học Tổng hợp Bonn để học luật. Hai tháng sau, theo lời khuyên của cha, Mác theo học ở trường Đại học Tổng hợp Berlin. Năm 1836, trong dịp nghỉ hè, chàng thanh niên Mác đính hôn với người bạn gái từ thuở ấu thơ hơn Mác bốn tuổi, Gianny Vôn Vecphalen, con gái viên Tam đẳng đại thần Luguy Vôn Vecphalen (Ludwig vôn Vestphalen) thuộc dòng dõi quý tộc. Ở trường Đại học Tổng hợp Berlin, năm 1836 ngoài luật học, sử học và ngoại ngữ Mác bắt đầu đi sâu nghiên cứu triết học, những vấn đề của lịch sử triết học Cổ đại. Ngày 19 tháng 6 năm 1843, Mác chính thức làm lễ thành hôn với Gianny bất chấp sự phản đối kịch liệt của gia đình Gianny.
Cuối tháng 10 năm 1843, C. Mác đi Paris, thủ đô nước Pháp, chuyến đi Paris đầu tiên này một năm rưỡi là quãng thời gian đầy ý nghĩa đối với sứ mệnh chính trị của C. Mác. Lần đầu tiên, Các Mác gặp Phriđơrich Ăngghen vào cuối tháng 11 năm 1842. Mùa hè năm 1844, Ăngghen đến thăm Mác ở Paris, trong 10 ngày ở thăm Paris, Mác và Ăngghen đã có nhiều cuộc nói chuyện cởi mở và từ cuộc gặp gỡ này hai ông đã trở thành những người bạn cùng chung lý tưởng và quan điểm trong tất cả vấn đề lý luận và thực tiễn.
Mới 19 tuổi, Các Mác đã nghiên cứu kỹ tác phẩm của Hêghen (1770 -1831). Đặc biệt, Mác chú ý đến triết học của Êpicuơ một trong những nhà tư tưởng lớn nhất thời Cổ đại. Tiếp theo, Mác đã viết một bài báo sắc sảo (2/1842) chống lại sự kiểm duyệt báo chí của chế độ chuyên chế Phổ, nhân đó lên án gay gắt các thể chế nhà nước Phổ.
Từ tháng 4 - tháng 8 năm 1844. Mác viết Bản thảo kinh tế - triết học mà sau này Mác phát triển một cách khoa học trong bộ Tư bản. Tháng 2 năm 1845, cuốn sách Gia đình thần thánh của Mác và Ăngghen viết chung ra đời đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm chủ quan của phái Hêghen trẻ, phê phán toàn bộ chủ nghĩa duy tâm, đồng thời nêu ra vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Tiếp đó Mác cùng với Ăngghen hợp sức viết Hệ tư tưởng Đức (1845 – 1846). Sau đó lần lượt là cuốn Sự bần cùng của triết học (1847), năm 1848 cùng Ăngghen viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - một văn kiện mang tính chất cương lĩnh của chủ nghĩa Mác và đảng vô sản, soi sáng cho giai cấp công nhân toàn thế giới con đường đấu tranh để thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản chủ nghĩa và đưa cách mạng vô sản đến thắng lợi. Đến năm 1867, Bộ Tư bản (tập I) – tác phẩm chủ yếu của Mác ra đời. Tập II và III Mác không kịp hoàn tất, Ăngghen đảm nhiệm việc xuất bản hai tập này.
Tên tuổi của Các Mác mãi mãi đi vào lịch sử nhân loại như những người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học có tác động to lớn và sâu rộng đối với nhân loại tiến bộ. Mác không chỉ là nhà lý luận thiên tài mà còn là nhà cách mạng vĩ đại. Trong bối cảnh phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ, Mác ra sức hoạt động thực tiễn. Cả cuộc đời Người chiến đấu quyết liệt và không mệt mỏi chống mọi kẻ thù của giai cấp vô sản, chống lại các thứ trào lưu tư tưởng tư sản, Ph.Ăng-ghen nói: “Con người ấy mất đi, thật không sao có thể lường cho hết tổn thất đối với giai cấp vô sản chiến đấu của châu Âu và châu Mỹ, tổn thất đối với khoa học lịch sử. Không bao lâu, chúng ta sẽ cảm thấy nỗi trống trải sau cái chết của bậc vĩ nhân ấy.
Cuộc đời và sự nghiệp của Mác đã hòa hợp một cách hữu cơ những đặc điểm của một nhà bác học vĩ đại, một nhà nghiên cứu không biết mệt mỏi, một người phát hiện đầu tiên những chân lý khoa học, một nhà chính luận cách mạng nồng nhiệt, một nhà chiến lược và sách lược vô sản sáng suốt, một nhà lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng quần chúng vô sản. Mác nổi bật về đức tính cao cả của con người, giản dị, nhiệt tình và yêu đời, có ý chí bất khuất và năng lực lao động khác thường, can đảm và anh dũng. Đó là một cuộc đời đầy gian khổ nhưng rất đỗi mẫu mực về tính khoa học và tình cảm cách mạng cao cả. Mác đã cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp giải phóng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động trên toàn thế giới./.