Hiện nay, tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng diễn biến hết sức phức tạp, để lại nhiều hậu quả khôn lường cho xã hội. Qua công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm lừa đảo trên không gian mạng, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ nhận thấy vẫn còn những nhận thức khác nhau giữa các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc xác định tội danh để khởi tố vụ án về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (thuộc nhóm các tội xâm phạm sở hữu) hay tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (thuộc nhóm tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng, trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông).
Việc phân biệt hai loại tội phạm nêu trên nhất thiết phải dựa vào các dấu hiệu pháp lý trong từng cấu thành tội phạm cụ thể theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Trên cơ sở thu thập, đánh giá các tình tiết khách quan liên quan đến hành vi nguy hiểm cho xã hội, cần so sánh, đối chiếu, tìm ra sự phù hợp giữa các tình tiết đó với các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự để việc định tội được đúng đắn, khách quan và chính xác.
1. Điểm giống nhau:
- Khách thể: Tội phạm đều xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
- Chủ thể: Chủ thể của tội phạm đều phải đạt độ tuổi luật định, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đều không phải là chủ thể đặc biệt.
- Mặt khách quan: Tội phạm đều biểu hiện ở dạng hành vi là dùng thủ đoạn để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
- Mặt chủ quan: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
- Hình phạt: Bao gồm 05 khung hình phạt được quy định cụ thể tại mỗi Điều luật.
Việc phân biệt hai loại tội phạm nêu trên nhất thiết phải dựa vào các dấu hiệu pháp lý trong từng cấu thành tội phạm cụ thể theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Trên cơ sở thu thập, đánh giá các tình tiết khách quan liên quan đến hành vi nguy hiểm cho xã hội, cần so sánh, đối chiếu, tìm ra sự phù hợp giữa các tình tiết đó với các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự để việc định tội được đúng đắn, khách quan và chính xác.
1. Điểm giống nhau:
- Khách thể: Tội phạm đều xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
- Chủ thể: Chủ thể của tội phạm đều phải đạt độ tuổi luật định, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đều không phải là chủ thể đặc biệt.
- Mặt khách quan: Tội phạm đều biểu hiện ở dạng hành vi là dùng thủ đoạn để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
- Mặt chủ quan: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
- Hình phạt: Bao gồm 05 khung hình phạt được quy định cụ thể tại mỗi Điều luật.
2. Điểm khác nhau:
TT | Nội dung so sánh | Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản | Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản |
1 | Căn cứ pháp lý | Điều 290 Bộ luật Hình sự Mục 2. Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông Chương XXI. Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng | Điều 174 Bộ luật Hình sự Chương XVI. Các tội xâm phạm sở hữu |
2 | Khách thể | Tội phạm xâm phạm an toàn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, đồng thời xâm phạm quyền, lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân. | Tội phạm xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân. |
3 | Mặt khách quan | - Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội này giống với hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên đặc điểm riêng biệt của tội phạm quy định tại Điều 290 Bộ luật hình sự là thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng để chiếm đoạt tài sản, đó là thủ đoạn “sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử”, với những hành vi cụ thể như sau: + Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ. + Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ. Trong đó, việc làm giả thẻ ngân hàng là việc cá nhân không có thẩm quyền sản xuất, phát hành thẻ ngân hàng nhưng sản xuất thẻ giống như thẻ ngân hàng (trong đó có chứa đựng thông tin, dữ liệu như thẻ của ngân hàng phát hành). + Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản. Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa hoặc sử dụng mã truy cập vào tài khoản không phải của mình nhằm chiếm đoạt tài sản. + Lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản. Đây là sử dụng thủ đoạn gian dối, đưa ra những thông tin sai sự thật về một sản phẩm, một vấn đề, lĩnh vực trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm tạo niềm tin cho người chủ tài sản, người quản lý tài sản, làm cho họ tưởng là thật và mua, bán hoặc đầu tư vào lĩnh vực đó. + Thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản. * Ngoài ra, TTLT số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTTTT-VKSNDTC-TANDTC ngày 10/9/2022 cũng đề cập đến các hành vi khác như: Gửi tin nhắn lừa trúng thưởng nhưng thực tế không có giải thưởng để chiếm đoạt phí dịch vụ tin nhắn; quảng cáo bán hàng trên mạng Internet, mạng viễn thông nhưng không giao hàng hoặc giao không đúng số lượng, chủng loại, chất lượng thấp hơn hàng quảng cáo và các hành vi tương tự. - Tội phạm có cấu thành hình thức: Cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả không phải dấu hiệu bắt buộc. Do đó, tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội có hành vi sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra. | - Hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho người có tài sản tin đó là sự thật nên đã tự nguyện giao tài sản cho người có hành vi gian dối. Một người bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi giá trị của tài sản bị chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc giá trị dưới 2.000.000 đồng nếu thỏa mãn thêm điều kiện luật định. Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thể hiện ở hai hành vi: + Hành vi gian dối: Là hành vi đưa ra thông tin không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thật. Thủ đoạn thực hiện rất đa dạng có thể qua lời nói, sử dụng giấy tờ giả, giả danh người có chức vụ, quyền hạn... + Hành vi chiếm đoạt tài sản, trong đó mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản. Nếu sau khi đã có tài sản một cách hợp pháp rồi mới có ý định chiếm đoạt thì không phải là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tùy trường hợp cụ thể người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội tương ứng, ví dụ như: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Như vậy, hành vi gian dối là điều kiện để thực hiện việc chiếm đoạt, còn hành vi chiếm đoạt là mục đích và kết quả của hành vi gian dối. * Lưu ý: Để tránh chồng chép giữa quy định về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản với quy định về các tội khác cũng có quy định hành vi chiếm đoạt tài sản, người thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản bằng các thủ đoạn gian dối nếu thỏa mãn các dấu hiệu thuộc cấu thành tội phạm của Điều 290 thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 174, mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 290 Bộ luật Hình sự. - Tội phạm có cấu thành vật chất: Cấu thành tội phạm có dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và quan hệ nhân quả giữa nguyên nhân – hậu quả do hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra. Tội phạm được hoàn thành từ thời điểm có sự giao, nhận tài sản giữa người bị hại và người phạm tội. |
4 | Chủ thể | Chủ thể của tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là người từ đủ 16 tuổi trở lên. Trong trường hợp tội phạm thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý tại khoản 3, khoản 4 Điều 290 Bộ luật Hình sự (Loại tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng), chủ thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự có thể là người từ đủ 14 tuổi trở lên. | Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người từ đủ 16 tuổi trở lên. |
5 | Hình phạt | - Người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử thực hiện một trong những hành vi sau đây, nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ; b) Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ; c) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản; d) Lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản; đ) Thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Phạm tội 02 lần trở lên; c) Có tính chất chuyên nghiệp; d) Số lượng thẻ giả từ 50 thẻ đến dưới 200 thẻ; đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; e) Gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng; g) Tái phạm nguy hiểm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; b) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; c) Số lượng thẻ giả từ 200 thẻ đến dưới 500 thẻ. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; b) Gây thiệt hại 500.000.000 đồng trở lên; c) Số lượng thẻ giả 500 thẻ trở lên. - Khung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. | - Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; d) Tái phạm nguy hiểm; đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. - Khung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. |