Theo đơn khởi kiện nguyên đơn trình bày: Do quen biết vào cuối năm 2008, ông bà có cho Vũ Đức H mượn 34 lượng vàng SJC, thời hạn 06 tháng, lãi suất 1,5%/tháng, có lập giấy nợ nhưng ông đã làm thất lạc bản chính. Sau đó, ông H có xác nhận nợ và hẹn trả nhiều lần. Lúc vay ông H có thế chấp 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 530303 mang tên Vũ Thị Xuân G (là chị ruột ông H), có giấy xác nhận chữ ký do bà G lập ngày 14/7/2008 với nội dung cho ông H mượn GCNQSDĐ để vay vốn kinh doanh. Khi đến hạn ông H không thanh toán cả nợ gốc và lãi nên ông bà có liên hệ bà G để xử lý tài sản thế chấp, ngày 05/8/2014 bà G lập bản cam kết nội dung đôn đốc ông H trả nợ trong 06 tháng, trường hợp ông H không trả được số nợ 34 lượng vàng SJC và lãi thì bà có trách nhiệm trả nợ thay. Nay nguyên đơn yêu cầu trả số nợ vay và lãi suất theo qui định, trường hợp bị đơn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì phát mãi tài sản thế chấp.
Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Vũ Thị Xuân G trình bày: Năm 2008 ông H có mượn GCNQSDĐ 03 tháng để đi vay tiền làm công trình. Năm 2014 ông P có mời bà lên nhà và soạn sẵn văn bản đề nghị bà chép lại với nội dung trả nợ thay ông H, bà chỉ nghĩ sẽ đôn đốc ông H trả nợ. Đối với khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu bà trả nợ thay ông H bà không đồng ý và đề nghị được nhận lại giấy chứng nhận quyề sử dụng đất mà H đã mượn.
Bản án số 54/2018/DS-ST ngày 06 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều đã tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc ông Vũ Đức H trả cho ông Lữ P, bà Trần Thị Bích N 50, 87 lượng vàng SJC (50 lượng, 08 phân, 07 ly vàng SJC). Nếu ông H không trả hết nợ cho nguyên đơn thì bà Vũ Thị Xuân G có trách nhiệm trả cho nguyên đơn 50 lượng, 08 phân, 07 ly vàng SJC. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc tuyên phát mãi tài sản thế chấp là phần đất có diện tích 399,9m2 theo giấy CNQSDĐ số AC 530303 do UBND quận Ninh Kiều cấp ngày 12/6/2005 cho bà Vũ Thị Xuân G. Ngoài ra bản án còn tuyên phần án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông P, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà G đều có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, xét thấy quá trình giải quyết vụ án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng về tống đạt, niêm yết và nội dung giải quyết vụ án hưởng trực tiếp đến quyền lợi của đương sự, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm theo quy định tại khoản 3 Điều 308 Bộ luật TTDS năm 2015.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh luận của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thống nhất đề nghị của Kiểm sát viên tuyên hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Vũ Thị Xuân G trình bày: Năm 2008 ông H có mượn GCNQSDĐ 03 tháng để đi vay tiền làm công trình. Năm 2014 ông P có mời bà lên nhà và soạn sẵn văn bản đề nghị bà chép lại với nội dung trả nợ thay ông H, bà chỉ nghĩ sẽ đôn đốc ông H trả nợ. Đối với khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu bà trả nợ thay ông H bà không đồng ý và đề nghị được nhận lại giấy chứng nhận quyề sử dụng đất mà H đã mượn.
Bản án số 54/2018/DS-ST ngày 06 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều đã tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc ông Vũ Đức H trả cho ông Lữ P, bà Trần Thị Bích N 50, 87 lượng vàng SJC (50 lượng, 08 phân, 07 ly vàng SJC). Nếu ông H không trả hết nợ cho nguyên đơn thì bà Vũ Thị Xuân G có trách nhiệm trả cho nguyên đơn 50 lượng, 08 phân, 07 ly vàng SJC. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc tuyên phát mãi tài sản thế chấp là phần đất có diện tích 399,9m2 theo giấy CNQSDĐ số AC 530303 do UBND quận Ninh Kiều cấp ngày 12/6/2005 cho bà Vũ Thị Xuân G. Ngoài ra bản án còn tuyên phần án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông P, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà G đều có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, xét thấy quá trình giải quyết vụ án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng về tống đạt, niêm yết và nội dung giải quyết vụ án hưởng trực tiếp đến quyền lợi của đương sự, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm theo quy định tại khoản 3 Điều 308 Bộ luật TTDS năm 2015.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh luận của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thống nhất đề nghị của Kiểm sát viên tuyên hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.