Theo đơn khởi kiện, vào năm 2004 nguyên đơn nhận chuyển nhượng phần đất diện tích 101,5m2 từ bà Nguyễn Thị Lưu Nh và được Ủy ban nhân dân quận B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00681 ngày 21/9/2004 tại thửa số 579, tờ bản đồ 18 tọa lạc tại khu vực Bình Nhựt, phường Long Hòa, quận Bình Thủy. Đến năm 2015, nguyên đơn phát hiện phần đất của mình đã bị ông Triệu Phan Quốc Tr lấn chiếm xây dựng nhà trọ. Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn tháo dỡ công trình xây dựng trả lại phần đất lấn chiếm diện tích 101,5m2 cho nguyên đơn.
Bị đơn ông Triệu Phan Quốc Tr không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Vào năm 2013, bị đơn nhận chuyển nhượng từ ông Lý Trang V với diện tích 201,7m2, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A 202007, tờ bản đồ số 18, thửa 580. Đến ngày 19/8/2013 ông được Ủy ban nhân dân quận Bình Thủy cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số PB 436354 tờ bản đồ số 17, thửa 1044 đất tọa lạc tại khu vực Bình Nhựt, phường Long Hòa, quận Bình Thủy. Ngày 20/6/2014 được UBND quận Bình Thủy cấp phép xây dựng. Thời điểm bị đơn mua đất là khu đất trống, giáp ranh với ông T và bà L. Việc ông bà chuyển nhượng và xây dựng là đúng trình tự quy định pháp luật.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Tôn Quốc T, bà Trần Hồng Nh trình bày, năm 2013 vợ chồng ông bà mua của ông Vũ Xuân T và được Ủy ban nhân dân quận Bình Thủy cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa 515, tờ bản đồ số 17, diện tích 202m2. Khi mua phần đất này đã có căn nhà cấp 4 kiên cố trên đất. Đối với yêu cầu của nguyên đơn, ông bà không có ý kiến gì.
Bản án dân sự sơ thẩm số 48/2021/DS-ST ngày 01/11/2021 của Tòa án nhân dân quận B tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn ông Triệu Phan Quốc Tr phải trả lại cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị H Y phần quyền sử dụng đất có diện tích 104.2m2, thuộc thửa số 579, tờ bản đồ số 18, tọa lạc tại khu vực Bình Nhựt (nay là Bình An), phường Long Hòa, quận Bình Thủy.
Công nhận quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo đúng diện tích xây dựng trên thửa đất số 579 tại bản trích đo địa chính số 56 ngày 15/6/2021 của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ cho bà Nguyễn Thị H Y. Bà Nguyễn Thị H Y có trách nhiệm thanh toán lại giá trị tài sản gắn liền với đất là 05 căn nhà trọ cho ông Triệu Phan Quốc Tr với tổng số tiền là 509.733.961 đồng.
Ngày 09/11/2021, bị đơn kháng cáo yêu cầu hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 48/2021/DS-ST ngày 01/11/2021 của Tòa án nhân dân quận B.
Ngày 11/11/2021, nguyên đơn kháng yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng buộc bị đơn tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng lấn chiếm trên đất của nguyên đơn; Nguyên đơn không đồng ý việc thanh toán cho bị đơn giá trị 05 phòng trọ là 509.733.961 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên đã phân tích, động viên các đương sự thỏa thuận với nhau về việc có thể nguyên đơn chuyển nhượng lại phần đất tranh chấp cho bị đơn hoặc trả lại 50% giá trị tài sản trên đất, nhưng các đương sự không thỏa thuận được. Vì xét về lỗi trong vụ án này thuộc về bị đơn, khi xây dựng nhà bị đơn có xin giấy phép xây dựng nhưng vị trí xây dựng không đúng theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp, mà căn cứ vào hiện trạng nhà các đương sự khác đã xây dựng và bị đơn xây dựng tiếp theo. Thực tế hộ kế bên đã xây nhà trên một phần đất của bị đơn, dẫn đến bị đơn xây nhà lấn qua phần đất của nguyên đơn nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị đơn trả lại đất cho nguyên đơn là có căn cứ.
Tuy nhiên, việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định nguyên nhân dẫn đến việc xây nhà không đúng vị trí là lỗi của bị đơn và việc nguyên đơn không phát hiện việc bà T xây nhà trọ trên đất của nguyên đơn nên nguyên đơn cũng có lỗi nên giao toàn bộ 05 căn nhà trọ trên đất cho nguyên đơn quản lý, sử dụng và buộc trả lại giá trị 509.733.961 đồng cho bị đơn là thiệt thòi quyền lợi cho nguyên đơn. Bởi lẽ, hiện tại nguyên đơn không có nhu cầu sử dụng 05 căn nhà trọ nêu trên, các đương sự không thỏa thuận được vấn đề này thì cần phải buộc bị đơn tháo dỡ công trình trên đất trả lại nguyên trạng cho nguyên đơn. Do đó, kháng cáo của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận. Đối với kháng cáo của bị đơn là không có căn cứ để chấp nhận. Từ những nhận định như trên, Kiểm sát viên đề nghị hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308 BLTTDS năm 2015, sửa một phần bản án sơ thẩm số 48/2021/DS-ST ngày 01/11/2021 của Tòa án nhân dân quận B, theo hướng chấp nhận đơn khởi kiện, đơn kháng cáo của nguyên đơn, bác kháng cáo của bị đơn. Quan điểm của Kiểm sát viên được Hội đồng xét xử chấp nhận./.