Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vào các ngày 06 và 07/01/2022 diễn ra trước đó: theo Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát, các bị cáo Lê Thanh Hải, Giám đốc và Trần Huy Liệu, Phó giám đốc Agribank - Chi nhánh Cần Thơ biết rõ bị cáo Nguyễn Huỳnh Đạt Nhân, Giám đốc Công ty TNHH MTV Nông thủy sản Tây Nam không đủ điều kiện được Nhà nước cho vay ưu đãi lãi suất theo Quyết định 63/2010/QĐ-TTg, ngày 15/10/2010 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản nhưng Hải và Liệu vẫn giải quyết cho Nhân vay tổng số tiền 258 tỷ đồng. Hải, Liệu và Nhân bàn bạc lập khống hồ sơ vay, nâng khống giá trị tài sản thế chấp; Nhân sử dụng tiền vay được chủ yếu đầu tư vào bất động sản, trả nợ cho các khoản vay và sử dụng cá nhân mất khả năng thanh toán. Do sợ bị phát hiện sai phạm trong việc cấp tín dụng và phát sinh nợ xấu, Hải, Liệu và Tuấn Anh bàn bạc, hướng dẫn Nhân tiếp tục dùng các công ty gồm Công ty TNHH MTV Đồng Bằng Xanh, Công ty TNHH MTV TM-DV Nam Bộ Cửu Long (công ty của Nhân thuê người đại diện pháp luật) và chỉ đạo nhân viên Nguyễn Bửu Tâm, Phan Duy Phương lập hồ sơ khống, nâng khống giá trị tài sản thế chấp để vay tiền, rồi sử dụng tiền vay sai mục đích dẫn đến không còn khả năng thanh toán gây thiệt hại cho Ngân hàng Agribank Việt Nam số tiền 303.683.875.386 đồng.
Trong hai ngày diễn ra phiên tòa sơ thẩm, luật sư tham gia bào chữa cho các bị cáo và đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố đã có phần tranh luận, đối đáp để bảo vệ quan điểm các bên, đồng thời làm rõ thêm một số nội dung, tình tiết liên quan đến vụ án. Với những chứng cứ đã thu thập, cùng với phần xét hỏi bị cáo và những người có quyền và nghĩa vụ liên quan, bằng những lập luận chi tiết, chính xác và đúng căn cứ pháp luật, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố trước đó.
Tuy nhiên, sau thời gian nghị án, Hội đồng xét xử đã tuyên bố tất cả 06 bị cáo trong vụ án là Lê Thanh Hải, Trần Huy Liệu, Bùi Tuấn Anh, Nguyễn Huỳnh Đạt Nhân, Phạm Tường Thi, Nguyễn Văn Đạt không phạm tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”.
Theo đó, tại Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐ-VKSCT ngày 20/01/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ nhận định Hội đồng xét xử đã không đánh giá đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, tài liệu thu thập được trong vụ án khi tuyên các bị cáo không phạm tội bởi nhiều lý do:
Thứ nhất, Hội đồng xét xử cho rằng hậu quả thiệt hại trong vụ án phải được xác định từ việc bị hại là Agribank Việt Nam bán tài sản được đảm bảo trong vụ án thông qua đấu giá công khai, thì giá trị tài sản mới là khách quan và xác thực, phù hợp với quyền tự định đoạt giữa các đương sự, với giá thị trường, còn kết luận định giá vẫn là chủ quan và được định như vậy chỉ là giá trị tham khảo, do chưa xử lý tài sản đảm bảo nên chưa có căn cứ để xác định thiệt hại và khắc phục hậu quả đối với các khoản vay của 03 công ty và 02 cá nhân trong vụ án.
Nhận định trên là không đúng với quy định pháp luật theo khoản 2 Điều 10 Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Thiệt hại trong vụ án được xác định kể từ thời điểm tội phạm hoàn thành và đã được ngăn chặn thời điểm tháng 6/2016 sau khi đối trừ giá trị tài sản đảm bảo với vốn và lãi đã gây thiệt hại cho Agribank Việt Nam, với số tiền 303.683.875.386 đồng, không thể căn cứ vào biến động của giá trị tài sản đảm bảo trong tương lai để xác định có hay không có thiệt hại như Hội đồng xét xử đã đưa ra.
Thứ hai, việc Hội đồng xét xử nhận định trường hợp xét xử đối với các bị cáo theo quy định tại Điều 179 Bộ luật Hình sự năm 1999 hoặc Điều 206 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì phải xác định được thiệt hại, trong khi hiện nay Agribank Việt Nam cũng không xác định được thiệt hại. Như vậy, Hội đồng xét xử cho rằng chủ thể chứng minh thiệt hại trong vụ án hình sự là bị hại là vi phạm quy định Điều 15 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định xác định sự thật vụ án tố tụng hình sự.
Để chứng minh tội phạm cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ đã thu thập chứng cứ theo đúng quy định tại Điều 87 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Thứ ba, Hội đồng xét xử không chấp nhận giá trị tài sản do Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự các địa phương và Trung ương định giá vì cho rằng hoạt động định giá trong tố tụng hình sự còn nhiều hạn chế và lấy giá trị tài sản do luật sư cung cấp từ các chứng thư của các công ty thẩm định giá, các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền đất, Kết luận thanh tra chính phủ để so sánh, đưa ra chênh lệch giá là không đúng với quy định pháp luật, chưa đánh giá toàn diện chứng cứ.
Vì căn cứ theo quy định tại Điều 215 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Khi cần xác định giá của tài sản để giải quyết vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra văn bản yêu cầu định giá tài sản”.
Trong vụ án, để xác định giá trị của tài sản đảm bảo liên quan đến các hợp đồng tín dụng, Cơ quan An ninh điều đã yêu cầu 06 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, bao gồm: thành phố Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang, tỉnh Vĩnh Long, tỉnh Trà Vinh, tỉnh Sóc Trăng và Hội đồng định giá tài sản theo vụ việc ở Trung ương để định giá tài sản thế chấp của các khoản vay công ty Tây Nam, công ty Đồng Bằng Xanh, công ty Nam Bộ Cửu Long, khoản vay cá nhân Phan Duy Phương, Nguyễn Bửu Tâm. 06 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thực hiện định giá tài sản, ban hành kết luận định giá tài sản theo đúng trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị định số: 26/2005/NĐ-CP ngày 02/3/2005 và Nghị định số: 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự; các kết luận định giá không mâu thuẫn về giá trị tài sản.
Thứ tư, Hội đồng xét xử còn cho rằng doanh nghiệp thẩm định giá chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước khách hàng về kết quả thẩm định giá ghi trong chứng thư thẩm định giá theo hợp đồng thẩm định giá đã ký kết. Trường hợp kết quả thẩm định giá không đúng, gây thiệt hại cho khách hàng hoặc người sử dụng kết quả thẩm định giá (Nhà nước, tổ chức, cá nhân) thì doanh nghiệp thẩm định giá phải bồi thường. Đây là trách nhiệm của công ty thẩm định giá. Nhận định trên của Hội đồng xét xử là chưa đánh giá hết chứng cứ thu thập trong vụ án: Vì căn cứ lời khai bị cáo Lê Thanh Hải trước đó cũng thừa nhận đã thống nhất với bị cáo Nhân nâng khống giá trị tài sản đảm bảo, đồng thời để hợp thức việc nâng khống giá trị tài sản đảm bảo, bị cáo Nhân thuê công ty thẩm định giá Hoàng Quân yêu cầu thẩm định giá tài sản cao hơn giá trị tài sản đảm bảo. Các khoản vay các bị cáo đã tự xác định giá trị tài sản đảm bảo trước khi có chứng thư thẩm định giá.
Thứ năm, Kết luận thanh tra số 978/KL-TTCP ngày 22/6/2018 của Thanh tra Chính phủ xác định giá trị khu đất số 12 đường Nguyễn Trãi, quận Ninh Kiều mức giá khởi điểm để bán đấu giá vào tháng 11/2011, trị giá 233.000.000.000 đồng cao hơn giá do Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Cần Thơ kết luận. Tuy nhiên, Kết luận của Thanh tra Chính phủ không phải là nguồn chứng cứ để giải quyết vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Cơ quan An ninh điều tra đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản theo vụ việc ở Trung ương định giá lại quyền sử dụng đất tại số 12 đường Nguyễn Trãi và tại Kết luận định giá tài sản số 01/KL-HĐĐG ngày 16/12/2020 kết luận giá trị quyền sử dụng đất tại số 12 đường Nguyễn Trãi, thống nhất giá đất thời điểm tháng 9/2012 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Cần Thơ, định giá thời điểm tháng 3/2013, trị giá là 104.407.948.000 đồng.
Như vậy, các tài liệu do các luật sư cung cấp không được xem là chứng cứ theo quy định tại Điều 86, khoản 2 Điều 87 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Mặt khác, Hội đồng xét xử nhận định giá trị tài sản do 06 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự là chủ quan, nhưng không triệu tập đến phiên toà để hội đồng định giá trình bày quan điểm là không đảm bảo tính khách quan của đánh giá chứng cứ.
Từ những lí do trên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ đã đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2022/HS-ST, ngày 07/01/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ để xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.