Nội dung vụ án: Bà Nguyễn Thị A là chủ sử dụng phần đất thửa số 446, 447 tại khu vực T, phường T, quận T, thành phố Cần Thơ. Nguồn gốc đất là của ông Nguyễn Văn K và bà Huỳnh Thị Đ, khi còn sống tặng cho bà A sử dụng. Năm 2006, do tách thửa cho bà X nên bà A được cấp giấy phần đất còn lại thửa 446, 447 có diện tích 1.376m2, đo đạc thực tế 1.096,4m2.
Vào năm 2004, ông Nh, ông Th, bà R, bà M tự ý cất nhà trên phần đất thửa 446 và 447 sinh sống cho đến nay, mặc dù các anh em đã được cha mẹ cho đất ở riêng. Do nhu cầu cần sử dụng nên bà A khởi kiện yêu cầu ông Nh di dời nhà để trả 166,7m2, yêu cầu ông Th di dời nhà trả 251,9m2, yêu cầu bà R di dời nhà trả 316,7m2, yêu cầu bà M trả 167,6 m2.
Các Bị đơn cho rằng cha mẹ là cụ Nguyễn Văn K (chết năm 1987) và cụ Huỳnh Thị Đ (chết năm 2003) , có 09 người con chung gồm: ông Nguyễn Văn Kh, ông Nguyễn Văn Nh, ông Nguyễn Văn Th, bà Nguyễn Thị A, bà Nguyễn Thị X, bà Nguyễn Thị M, bà Nguyễn Thị R, bà Nguyễn Thị S, ông Nguyễn Hồng Y (chết). Trước năm 1975, cha mẹ có phân chia đất cho các anh chị em gồm: cho ông Nh 3,9 công đất, ông Th 5,2 công, ông Kh 3,9 công, bà M 01 công tầm 3m, bà R 01 công tầm 3m, bà S 01 công tầm 3m. Đối với thửa 446 và 447 thì vào năm 1990 bà A tự ý kê khai đăng ký sử dụng nhưng các thành viên trong gia đình đều không biết. Do di sản cha mẹ để lại chưa chia nên bị đơn yêu cầu phản tố chia tài sản thừa kế theo quy định pháp luật, yêu cầu được nhận hiện vật như hiện trạng sử dụng. Bị đơn không đồng ý trả đất theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị X cho rằng, trước đây cha mẹ đã có cho riêng ông Nh, ông Th, ông Kh, bà M, bà R và bà S tại rạch ông Tam thuộc khu vực T, phường T, quận T, thành phố Cần Thơ. Bà A được cho phần đất tranh chấp, còn bà X chưa cho đất sử dụng. Việc bị đơn tự ý chiếm đất của bà A thì bà X thống nhất yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn để yêu cầu bị đơn có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn phần đất tranh chấp các bị đơn đang sử dụng thực tế. Bà không đồng ý chia di sản thừa kế.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị A về việc tranh chấp quyền sử dụng đất đối với các bị đơn. Chấp nhận yêu cầu phản tố của các bị đơn yêu cầu chia di sản thừa kế quyền sử dụng đất đối với nguyên đơn bà Nguyễn Thị A, đất tọa lạc tại khu vực T, phường T, quận T, thành phố Cần Thơ. Bà Nguyễn Thị A kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và bác yêu cầu phản tố của bị đơn, buộc các bị đơn di dời nhà trả đất cho bà; bà Nguyễn Thị X kháng cáo yêu cầu chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn, bà không đồng ý nhận giá trị quyền sử dụng đất vì đây là tài sản hợp pháp của bà A.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên đã phân tích về thủ tục cấp giấy chứng nhận cho bà A là thiếu sót về mặt hình thức nhưng cấp đúng đối tượng. Việc các đồng thừa kế cho rằng đất của cha mẹ chết để lại chưa chia nhưng thời điểm cấp giấy cho bà A, mẹ các ông bà vẫn còn sống và không có ý kiến gì về việc bà A đăng ký kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định. Bị đơn cho rằng đất của cha mẹ nhưng không có căn cứ gì chứng minh việc cha mẹ các bị đơn có đứng tên trên sổ mục kê hay sổ đăng ký ruộng đất nên không có căn cứ xác định đây là di sản thừa kế. Từ đó, xác định phần đất mà các đương sự tranh chấp là của bà Nguyễn Thị A nên các anh em xây nhà trên đất của bà A và trồng cây từ năm 2004 bà A không đồng ý và đã phát sinh tranh chấp kéo dài nhiều năm. Nay, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu buộc các bị đơn tháo dỡ công trình trên đất trả lại đất là có căn cứ, tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của các bị đơn chia thừa kế phần đất trên theo quy định là chưa đủ căn cứ. Đối với phần đất lấn rạch và đất bãi bồi không phải là đất của bà A mà do Ủy ban nhân dân quận T quản lý, nên tách phần đất lấn rạch và bãi bồi thành vụ kiện khác khi các đương sự có yêu cầu. Tuy nhiên, trong quá trình các bị đơn xây dựng nhà và các công trình khác trên đất bà A không có ngăn cản nên khi buộc tháo dỡ thì cần phải buộc bà A có trách nhiệm trả lại giá trị tài sản trên đất cho ông Th, ông Nh, bà R theo biên bản định giá. Về cây trồng trên đất buộc bà A có trách nhiệm trả lại giá trị theo biên bản định giá. Ngoài ra, dành quyền lưu cư cho ông Th, ông Nh, bà R 6 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Trong quá trình sử dụng đất các bị đơn ông Th, ông Nh, bà M và bà R đều có công sức bảo quản, duy trì, tôn tạo, giữ gìn đất nên khi buộc các bị đơn trả lại đất buộc bà A có trách nhiệm hỗ trợ mỗi người 20.000.000 đồng. Từ những phân tích như trên, kháng cáo của bà Nguyễn Thị A và bà Nguyễn Thị X là có cơ sở, đề nghị sửa Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận T.
Quan điểm đề xuất của Kiểm sát viên có đầy đủ cơ sở pháp lý, phân tích kỹ các tài liệu, chứng cứ có trong vụ án nên được Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ.