Tại phiên tòa, nguyên đơn ông PVU trình bày:Nguyên trước đây cha của ông là Phạm Văn H và mẹ là Lê Thị Ph ngụ ấp An Lợi, xã Thạnh Phú, huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ được Nhà nước cấp cho sử dụng thửa đất số 1037, tờ bản đồ số 1, diện tích 1.125m2, đất tọalạc tại ấp An Lợi, xã Thạnh Phú, huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ và sử dụng ổn định từ 1976 đến năm 2006. Năm 2005 thì mẹ ông mất, năm 2006 thì cha ông mất để lại phần đất đó cho ông sử dụng ổn định đến nay. Cha mẹ ông có 6 người con chung, các anh chị em không ai tranh chấp. Đến đầu năm 2020 thì ông Nguyễn Văn H sinh năm 1965, ngụ ấp An Lợi, xã Thạnh Phú, huyện Cờ Đỏ là người sử dụng đất liền kề với thửa số 1037 của ông là thửa 992, tờ bản đồ số 1, đất tọa lạc tại ấp An Lợi, xã Thạnh Phú, huyện cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ đã lấn chiếm đất của gia đình ông chiều ngang là 2,8m, chiều dài 42m, tổng diện tích 117,6m2 và trồng dừa trên phần đất lấn chiếm trên, ông yêu cầu ông Hết di dời toàn bộ tài sản trên đất trả lại phần đất tranh chấp.
Sau khi có kết quả đo đạc phần diện tích đất tranh chấp và tại biên bản ghi nhận ý kiến của đương sự ngày 14/12/2022 ông yêu cầu ông Nguyễn Văn H trả lại diện tích 79m2 theo kết quả đo đạc, MĐSD: CLN (vị trí A) theo bản trích đo địa chính số 23/TTKTTNMT ngày 28/4/2022 cuả Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ.
Bị đơn ông Nguyễn Văn H trình bày:ông Nguyễn Văn K (chết đầu năm 2019) và bà Lương Thị X (chết năm 2022) là vợ chồng. Ông bà có với nhau 13 người con. Lúc còn sống ông bà có tạo lập được diện tích đất tại các thửa đất số 992, 994, 998. Các thửa đất này chỉ mới được đăng ký quyền sử dụng đất chứ chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đối với thửa đất số 992, ông K, bà X đã cho ông vàcác anh em của ông sử dụng, ông H thì sử dụng một phần đất liền kề với thửa 1037. Trong quá trình sử dụng đất gia đình ông không có lấn chiếm tại thửa đất 1037. Vào khoảng năm 2016, giữa gia đình ông (do ông làm đại diện) và gia đình ông PVU (do ông PVClàm đại diện) có tiến hành thống nhất ranh lại. Sau khi thống nhất xong các bên cấm trụ đá và ông C đã tiến hành làm hàng rào, sử dụng ổn định đến nay. Đối với diện tích tranh chấp giữa ông PVU và gia đình hiện nay là từ hàng rào qua thửa đất số 992 nên không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của ông PVU.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phía ông PVU không có ý kiến và ủy quyền cho ông PVU, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan phía ông Nguyễn Văn H thống nhất với lời trình bày của ông Nguyễn Văn H và không có lấn chiếm đất và không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Căn cứ vào các chứng cứ do đương sự cung cấp và tòa án thu thập được nhận thấy ông PVU cho rằng ông Nguyễn Văn H là người sử dụng thửa đất số 992, tờ bản đồ số 1 tọa lạc tại ấp An Lợi, xã Thạnh Phú, huyện Cờ Đỏ đã sự dụng đất lấn sang phần đất của gia đình ông diện tích 79m2 là thửa số 1037 cặp ranh với diện tích theo bản trích đo địa chính số số 23/TTKTTNMT ngày 28/4/2022 của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ (tại vị trí A) và yêu cầu trả lại phần diện tích đã lấn chiếm này.
Hồ sơ vụ án thể hiện đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất của ông Phạm Văn H ngày 20/6/1989 gồm có 07 thửa, trong đó thửa số 1037 có diện tích là 1.125m2; ông Nguyễn Văn K có đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất ngày 21/4/1989 gồm 03 thửa, trong đó thửa số 992 có diện tích là 1.625m2 và đã có tên trong hồ sơ địa chính.
Bản trích đo địa chính số 23/TTKTTNMT ngày 28/4/2022 cuả Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ thể hiện thửa đất 992 diện tích là 1.559,1m2 (chưa bao gồm phần diện tích tranh chấp ở vị trí A); thửa 1037 có diện tích là 1.156,4m2 (chưa bao gồm phần diện tích đất tranh chấp ở vị trí A). Như vậy thửa đất mà nguyên đơn ông PVU sử dụng có diện tích lớn hơn so với diện tích xin đăng ký quyền sử dụng đất; phần diện tích đất bị đơn sử dụng (chưa bao gồm phần tranh chấp ở vị trí A) là nhỏ hơn so với phần diện tích xin đăng ký cấp giấy (thiếu 65,9m2), nếu cộng thêm phần tranh chấp 79m2thì chỉ nhiều hơn 13,1m2 so với phần điện tích đăng ký. Trong khi đó phần diện tích nguyên đơn sử dụng đã nhiều hơn phần đất đăng ký là 31,4m2, nếu cộng thêm phần vị trí tranh chấp là nguyên đơn sử dụng nhiều hơn phần đất xin được cấp giấy là 110,4m2. Từ đó cho thấy nguyên đơn cho rằng bị đơn lấn chiếm quyền sử dụng đất với diện tích 79m2 là không có sơ sở.
Ngoài ra, trong biên bản ghi nhận ý kiến của các đương sự ngày 14/12/2022) nguyên đơn trình bày “thời điểm thống nhất ranh giới giữa ông Nguyễn Văn H với ông Nguyễn Văn C em của ông thì ông không có mặt tại địa phương vì đi làm ăn xa. Cho nên có thể thấy ông PVU không phải là người sử dụng phần đất tranh chấp liên tục từ năm 2006 như trong đơn khở kiện ông đã trình bày. Các bên đã sử dụng đất ổn định từ lâu, đến khi phát sinh tranh chấp đã tự thỏa thuận thống nhất ranh và đã trồng trụ đá, xây hàng rào theo ranh đã thống nhất nên việc ông PVU cho rằng ông Nguyễn Văn H người sử dụng phần đất liền kề với thửa số1037 của gia đình ông và yêu cầu trả lại là không có căn cứ. Các anh chị em của ông PVU là những người đã ở trên phần đất cha mẹ để lại và sử dụng ổn định, ông PVU đi làm ăn xa khi về cho rằng đất bị lấn chiếm mà không đưa ra được căn cứ gì chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình, trong khi các anh em của ông từ trước đến khi ông về cũng không có tranh chấp ranh đất với ông Nguyễn Văn H và đã thỏa thuận thống nhất ranh để làm hàng rào và sử dụng ổn đinh, điều đó cho thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có căn cứ.
Từ những căn cứ nên trên Kiểm sát viên đã đề xuất không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Sau khi có kết quả đo đạc phần diện tích đất tranh chấp và tại biên bản ghi nhận ý kiến của đương sự ngày 14/12/2022 ông yêu cầu ông Nguyễn Văn H trả lại diện tích 79m2 theo kết quả đo đạc, MĐSD: CLN (vị trí A) theo bản trích đo địa chính số 23/TTKTTNMT ngày 28/4/2022 cuả Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ.
Bị đơn ông Nguyễn Văn H trình bày:ông Nguyễn Văn K (chết đầu năm 2019) và bà Lương Thị X (chết năm 2022) là vợ chồng. Ông bà có với nhau 13 người con. Lúc còn sống ông bà có tạo lập được diện tích đất tại các thửa đất số 992, 994, 998. Các thửa đất này chỉ mới được đăng ký quyền sử dụng đất chứ chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đối với thửa đất số 992, ông K, bà X đã cho ông vàcác anh em của ông sử dụng, ông H thì sử dụng một phần đất liền kề với thửa 1037. Trong quá trình sử dụng đất gia đình ông không có lấn chiếm tại thửa đất 1037. Vào khoảng năm 2016, giữa gia đình ông (do ông làm đại diện) và gia đình ông PVU (do ông PVClàm đại diện) có tiến hành thống nhất ranh lại. Sau khi thống nhất xong các bên cấm trụ đá và ông C đã tiến hành làm hàng rào, sử dụng ổn định đến nay. Đối với diện tích tranh chấp giữa ông PVU và gia đình hiện nay là từ hàng rào qua thửa đất số 992 nên không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của ông PVU.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phía ông PVU không có ý kiến và ủy quyền cho ông PVU, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan phía ông Nguyễn Văn H thống nhất với lời trình bày của ông Nguyễn Văn H và không có lấn chiếm đất và không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Căn cứ vào các chứng cứ do đương sự cung cấp và tòa án thu thập được nhận thấy ông PVU cho rằng ông Nguyễn Văn H là người sử dụng thửa đất số 992, tờ bản đồ số 1 tọa lạc tại ấp An Lợi, xã Thạnh Phú, huyện Cờ Đỏ đã sự dụng đất lấn sang phần đất của gia đình ông diện tích 79m2 là thửa số 1037 cặp ranh với diện tích theo bản trích đo địa chính số số 23/TTKTTNMT ngày 28/4/2022 của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ (tại vị trí A) và yêu cầu trả lại phần diện tích đã lấn chiếm này.
Hồ sơ vụ án thể hiện đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất của ông Phạm Văn H ngày 20/6/1989 gồm có 07 thửa, trong đó thửa số 1037 có diện tích là 1.125m2; ông Nguyễn Văn K có đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất ngày 21/4/1989 gồm 03 thửa, trong đó thửa số 992 có diện tích là 1.625m2 và đã có tên trong hồ sơ địa chính.
Bản trích đo địa chính số 23/TTKTTNMT ngày 28/4/2022 cuả Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ thể hiện thửa đất 992 diện tích là 1.559,1m2 (chưa bao gồm phần diện tích tranh chấp ở vị trí A); thửa 1037 có diện tích là 1.156,4m2 (chưa bao gồm phần diện tích đất tranh chấp ở vị trí A). Như vậy thửa đất mà nguyên đơn ông PVU sử dụng có diện tích lớn hơn so với diện tích xin đăng ký quyền sử dụng đất; phần diện tích đất bị đơn sử dụng (chưa bao gồm phần tranh chấp ở vị trí A) là nhỏ hơn so với phần diện tích xin đăng ký cấp giấy (thiếu 65,9m2), nếu cộng thêm phần tranh chấp 79m2thì chỉ nhiều hơn 13,1m2 so với phần điện tích đăng ký. Trong khi đó phần diện tích nguyên đơn sử dụng đã nhiều hơn phần đất đăng ký là 31,4m2, nếu cộng thêm phần vị trí tranh chấp là nguyên đơn sử dụng nhiều hơn phần đất xin được cấp giấy là 110,4m2. Từ đó cho thấy nguyên đơn cho rằng bị đơn lấn chiếm quyền sử dụng đất với diện tích 79m2 là không có sơ sở.
Ngoài ra, trong biên bản ghi nhận ý kiến của các đương sự ngày 14/12/2022) nguyên đơn trình bày “thời điểm thống nhất ranh giới giữa ông Nguyễn Văn H với ông Nguyễn Văn C em của ông thì ông không có mặt tại địa phương vì đi làm ăn xa. Cho nên có thể thấy ông PVU không phải là người sử dụng phần đất tranh chấp liên tục từ năm 2006 như trong đơn khở kiện ông đã trình bày. Các bên đã sử dụng đất ổn định từ lâu, đến khi phát sinh tranh chấp đã tự thỏa thuận thống nhất ranh và đã trồng trụ đá, xây hàng rào theo ranh đã thống nhất nên việc ông PVU cho rằng ông Nguyễn Văn H người sử dụng phần đất liền kề với thửa số1037 của gia đình ông và yêu cầu trả lại là không có căn cứ. Các anh chị em của ông PVU là những người đã ở trên phần đất cha mẹ để lại và sử dụng ổn định, ông PVU đi làm ăn xa khi về cho rằng đất bị lấn chiếm mà không đưa ra được căn cứ gì chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình, trong khi các anh em của ông từ trước đến khi ông về cũng không có tranh chấp ranh đất với ông Nguyễn Văn H và đã thỏa thuận thống nhất ranh để làm hàng rào và sử dụng ổn đinh, điều đó cho thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có căn cứ.
Từ những căn cứ nên trên Kiểm sát viên đã đề xuất không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.