Diễn biến tại phiên tòa : Nguyên đơn trình bày, trước đây mẹ ông là bà Trần Thị T (đã chết) và cha ông là ông Nhơn Văn Ch (đã chết), mẹ ông là bà T đứng tên trong GCNQSDĐ số 39/GCN/RĐ, loại đất 2L, thửa số 11, tờ bản đồ số 07, diện tích 11.650 m2, tọa lạc tại ấp Vĩnh Quới, thị trấn Vĩnh Thạnh, huyện Vĩnh Thạnh. Khi cha mẹ ông qua đời ông là người thừa kế quyền sử dụng đất trên. Ngày 16/5/2014, ông Phạm Văn Đ là hộ giáp ranh với ông tự ý xây hàng rào kiên cố lấn qua phần ranh đã cắm vào năm 2000 bằng cây căm xe ở phía trên và cắm bằng trụ đá, khi cắm mốc phía ông và ông Đ đều thống nhất. Nhưng sau đó ông Đ không đồng ý mốc ranh đã cắm trước đó nên tự ý lấn sang phần đất của ông ngang 1,5 mét, dài 90 mét tổng diện tích lấn chiếm của ông là 135 m2. Ông cũng có lời trình bày giáp đất ông là thửa đất số 10 tờ bản đồ số 07 do ông Mai Văn Ch đứng tên (đã chết) có diện tích 2.690 m2 do ông nhận chuyển nhượng bằng giấy tay ngày 17/8/1991 và sử dụng ổn định cho đến nay vẫn chưa sang tên ông.
Nay nguyên đơn yêu cầu tòa án buộc ông Đ chấm dứt việc lấn chiếm đất và tháo dỡ hàng rào đến đúng ranh đã cắm trước đó. Tuy nhiên sau khi đo đạc thực tế thì ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Đ trả lại phần diện tích đất lấn chiếm bổ sung sau khi đo đạc tổng cộng là 224,1 m2.
Qua nghiên cứu hồ sơ, nhận thấy phần diện tích đất của nguyên đơn đang sử dụng tại thửa số 10 và thửa số 11 thực tế đo bị thiếu so với GCNQSDĐ chưa kể phần đất tranh chấp. Cụ thể nguyên đơn tranh chấp với bị đơn giữa thửa số 11 và thửa số 12 là phần chiều ngang và chiều dài chạy dọc hết thửa số 12. Thực tế đo đạc thì thửa đất số 11 của nguyên đơn chỉ có 11.191.2 m2 trong khi giấy được cấp cho nguyên đơn là 11.650 m2, còn thiếu là 458,8m2. Riêng thửa đất số 12 của bị đơn đo đạc thực tế có diện tích là 2.445m2, trong khi diện tích của giấy được cấp là 2.775m2, như vậy thực tế còn thiếu 330m2 so với giấy chứng nhận được cấp.
Đối với phần đất của bị đơn sau khi được cấp giấy chứng nhận QSDĐ đã tiến hành xin cấp lại GCNQSDĐ năm 2000 do có biến động đất có chiều ngang đầu và cuối là 25m. Tuy nhiên, diện tích đo đạc thực tế có chiều ngang giáp với kinh Bốn tổng là 25,02m, chiều ngang còn lại cuối đất là 27,47m, như vậy so với chiều ngang đất của ông Đ sử dụng thực tế dư so với giấy đất mà ông được cấp. Về chiều dài thì hai cạnh thực tế lại bị thiếu so với GCNQSDĐ mà ông Đ được cấp, nhưng ông lại không tranh chấp phần ranh đất theo chiều dài với người sử dụng thửa đất liền kề là bà Phạm Thị V. Do đó, mặc dù tổng diện tích đất ông Đ hiện sử dụng bị thiếu so với giấy chứng nhận nhưng so với hình thể đất được cấp trong giấy thì đất ông Đ hình chữ nhật đều hai cạnh chiều ngang đất là 25, điểm giáp ranh giữa hai thửa đất là một đường thẳng chạy dài từ đầu kinh cho hết thửa đất của nguyên đơn. Nhưng ranh đất thực tế đất ông Đ khi tranh chấp lại nhiều hơn và đường ranh giới giữa đất ông Đ và ông Th không phải là đường thẳng mà theo hình zích zắc (dích dắc), do đó đủ cơ sở khẳng định ông Đ đã lấn sang phần đất của nguyên đơn. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát đã phát biểu chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và được Tòa án tuyên theo đề nghị của Kiểm sát viên./.