Thẩm phán công bố nội dung bản án sơ thẩm tại phiên tòa
Nội dung vụ án: Ngân hàng thương mại cổ phần AC (gọi tắt là ngân hàng) có cho ông Nguyễn Đình Tr vay vốn theo 02 hợp đồng tín dụng với tổng số tiền vay 1.700.000.000 đồng, mục đích vay xây dựng nhà và bổ sung vốn trong hoạt động sản xuất. Để đảm bảo khoản vay, ông Tr đã thế chấp cho ngân hàng 04 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gồm các thửa 357, 361, 362, 469. Trong quá trình thực hiện hợp đồng do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên ngân hàng khởi kiện, yêu cầu ông Tr thanh toán tổng số tiền vay gồm nợ gốc và lãi là 3.232.587.247 đồng, nếu không thanh toán sẽ yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phát mãi tài sản để đảm bảo thi hành án. Bị đơn ông Nguyễn Đình Tr đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ngân hàng. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn H cho rằng ông có vay của ông Phạm Chí L số tiền 300.000.000 đồng và có ký giấy ủy quyền cho ông Đinh Minh Đ về việc chuyển nhượng, cấm cố, thế chấp quyền sử dụng thửa đất 469 (Do lúc đó ông ký nhưng không kiểm tra và cũng không biết ông Đ là ai). Sau đó ông Đ chuyển nhượng cho ông Tr, ông Tr đem tài sản thế chấp cho nguyên đơn. Nay ông H yêu cầu tuyên bố vô hiệu các văn bản hợp đồng ủy quyền ngày 12/10/2016 và hủy Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất liên quan đến thửa 469 vì các giao dịch nêu trên là giả tạo. Quá trình giải quyết vụ án, tòa án cấp sơ thẩm xét xử tuyên chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Vào các ngày 21, 23/12/2023 nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo đối với bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm, trong hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ông Tr ký với ngân hàng quyền sử dụng đất thửa số 469, không thể hiện việc ông Tr thế chấp tài sản trên đất là nhà, cây trồng và mộ của gia đình nên việc ngân hàng kê biên toàn bộ tài sản là không có căn cứ chấp nhận. Đối với kháng cáo của ông Nguyễn Văn H cho rằng sau khi nhận số tiền 300.000.000 đồng thì ông L thu trước ba tháng tiền lãi là 1.200.000 đồng là phù hợp theo lời khai của ông L tại Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Cần Thơ. Như vậy, căn cứ theo lời khai của ông L thì bản chất của việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông H và ông L là nhằm đảm bảo cho khoản vay 300.000.000 đồng, điều này phù hợp với các chứng cứ ông H cung cấp cho Tòa án. Từ những căn cứ như trên, xét thấy việc ông H cho rằng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là giả tạo để che dấu hợp đồng vay là có căn cứ. Khi nhận thế chấp, ngân hàng không tiến hành thẩm định tại chỗ khi nhận thế chấp tài sản nên không được xem là người thứ ba ngay tình, ông Tr phải tự chịu trách nhiệm đối với khoản vay này. Buộc Ngân hàng trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 469 cho ông Nguyễn Văn H, kiến nghị Ủy ban nhân dân quận Thốt Nốt điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lại cho ông Nguyễn Văn H theo quy định.
Trên cơ sở phân tích các chứng cứ và áp dụng quy định pháp luật, Kiểm sát viên đề nghị sửa bản án sơ thẩm, bác kháng cáo của nguyên đơn, chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn H. Quan điểm của Viện kiểm sát được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận sửa án sơ thẩm.