Vừa qua, Viện kiểm sát nhân dân thành phố phối hợp với Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ tổ chức phiên tòa dân sự rút kinh nghiệm hai cấp. Vụ án “Tranh chấp thừa kế tài sản” giữa nguyên đơn ông Huỳnh Minh T và bị đơn bà Huỳnh Thị H.
Quang cảnh phiên tòa
Quang cảnh phiên tòa
Quang cảnh phiên tòa
Nội dung vụ án: Nguồn gốc thửa đất 1096, tờ bản đồ số 3, diện tích 190m2, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00887 do bà Huỳnh Thị H đứng tên ngày 23/3/2018, đất tọa lạc tại khu vực Thới Xương 2, phường Thới Long, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ, là của cha mẹ để lại là cụ Ph và cụ N. Lúc còn sống, hai cụ cho các con sử dụng chung phần đất này, trước năm 2005 thì bà H chưa có chồng ở chung với vợ chồng ông T trên phần đất này, do thấy bà H không có chồng con nên anh em trong gia đình đồng ý cho bà H đại diện kê khai đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất nêu trên. Đến năm 2013, bà H bán một phần đất cho chị Đỗ Thị Thanh Th diện tích đất 78 m2 với giá 15 lượng vàng 24k, việc mua bán làm giấy tay, ông Tài có ký tên trong bản giấy tay này. Năm 2017, bà Th làm thủ tục đăng ký quyền sử đụng đất thì không tách giấy được do diện tích không đủ theo quy định, bà H có ý muốn chuyển nhượng thêm đất để bà Thúy đủ diện tích làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Lúc này, ông T không đồng ý nên phát sinh tranh chấp. Anh, em ông T đều thống nhất đây là tài sản do cha mẹ để lại, bà H chỉ đứng tên đại diện chứ không phải đất cha mẹ cho riêng. Nguyên đơn yêu cầu chia di sản cha mẹ để lại thành 5 kỷ phần bằng nhau, ông T sẽ trả giá trị đất cho các đồng thừa kế.
Bị đơn không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn, vì lúc sinh thời cha mẹ có tạo được khối tài sản chung, khi các con trưởng thành, cha mẹ đã chia cho các con, ông T đã được chia điện tích đất 20 công tầm lớn. Riêng bà, được cụ Ph và cụ N cho tặng riêng 02 thửa đất 1096 và 1245 nêu trên, khi cho không làm giấy tờ. Năm 1991, bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu. Năm 2005, bà được cấp lại hộ Huỳnh Thị H. Đến năm 2018, chỉnh lý cấp lại cho cá nhân bà Huỳnh Thị H. Bị đơn có yêu cầu phản tố không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn; công nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 1096, diện tích 233,1m2 thuộc quyền sử dụng đất hợp pháp của bà; đồng thời, buộc vợ chồng ông T và các con di dời đi nơi khác, giao trả lại nhà và đất cho bà trực tiếp sử dụng. Đối với phần đất đã chuyển nhượng cho chị Th, bà đồng ý tách ra cho bà Th như đã thỏa thuận.
Ngày 30/8/2022, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vụ án, tuyên chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bác yêu cầu phản tố của bị đơn. Ngày 12/9/2022, bị đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm. Ngày 13/9/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận Ô Môn kháng nghị bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác khởi kiện của nguyên đơn, buộc nguyên đơn di dời tài sản trả quyền sử dụng đất cho bị đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm nhận định, thời điểm bà H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng như chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác, các anh chị em trong gia đình không ai có ý kiến cũng như không có tranh chấp. Tương tự như bà H, ông T cũng được cha mẹ tặng cho 05 thửa đất, có tổng diện tích 12.528m2, việc tặng cho cũng không có tài liệu chứng minh và ông T đã được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 01/10/1991, việc ông T cho rằng, phần đất của bà H đứng tên là do anh chị em để cho bà H đại diện kê khai và đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chỉ có phần đất của bà H mới là di sản thừa kế là không có cơ sở. Mặc dù, tài sản có nguồn gốc là của cha mẹ để lại nhưng chưa được công nhận quyền sử dụng đất. Sau đó 02 cụ đã tặng cho quyền sử dụng đất cho các con trong đó có bà H và bà H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. UBND quận Ô Môn xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà H là đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nên ông T yêu cầu chia thừa kế đối với thửa đất này là không có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm xác định ½ quyền sử dụng đất bà H đứng tên là di sản thừa kế và chia thừa kế theo quy định của pháp luật là không đúng. Hiện tại ông T cần chỗ ở, các anh, chị em trong gia đình đều có ý kiến để ông T nhận phần đất tranh chấp để thờ cúng cha mẹ nên cần ổn định phần đất và nhà của bà H trên đất cho ông T sử dụng và ông T phải trả giá trị cho bà H theo giá thị trường là phù hợp.
Trên cơ sở phân tích các chứng cứ và áp dụng quy định pháp luật, Kiểm sát viên đề nghị sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn, chấp nhận kháng nghị của VKSND quận Ô Môn, quan điểm của Kiểm sát viên được Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ.
Tô Nguyễn Mộng Lành
Phòng 9-VKSND TP. Cần Thơ
Phòng 9-VKSND TP. Cần Thơ