Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.
Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 15/3/2017, thay thế các văn bản của Thống đốc: Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001. Quyết định số 28/2002/QĐ-NHNN ngày 11 tháng 01 năm 2002. Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03 tháng 02 năm 2005. Quyết định số 783/2005/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 5 năm 2005. Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14 tháng 4 năm 2010. Thông tư số 05/2011/TT-NHNN ngày 10 tháng 3 năm 2011. Thông tư số 33/2011/TT-NHNN ngày 08 tháng 10 năm 2011. Thông tư số 08/2014/TT-NHNN ngày 17 tháng 3 năm 2014.
Một số nội dung mới cần chú ý khi kiểm sát việc giải quyết án KD-TM:
- Về điều kiện cho vay: Khách hàng là pháp nhân có năng lực pháp luật dân sự theo quy định của pháp luật. Khách hàng là cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật hoặc từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật.
Như vậy Tổ hợp tác, hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân và Công ty hợp danh không còn là chủ thể của hợp đồng tín dụng. Nội dung này là hoàn toàn phù hợp với quy định tại các Điều 101; 102 và 212 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Khi tham gia giao dịch dân sự thì các thành viên của hộ gia đình; tổ hợp tác; tổ chức khác là chủ thể tham gia xác lập thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia giao dịch.
- Về lãi suất cho vay: Nếu trước đây Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14 tháng 4 năm 2010 quy định: Tổ chức tín dụng thực hiện cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận đối với khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển và đời sống có hiệu quả. Quy định này đã được sửa đổi như sau:
Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam nhưng không vượt quá mức lãi suất cho vay tối đa do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định trong từng thời kỳ nhằm đáp ứng một số nhu cầu vốn.
Trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi theo quy định thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả;
Về các loại phí: Thông tư quy định các loại phí liên quan đến hoạt động cho vay: Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận về việc thu các khoản phí liên quan đến hoạt động cho vay, gồm: Phí trả nợ trước hạn trong trường hợp khách hàng trả nợ trước hạn.Phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng. Phí thu xếp cho vay hợp vốn. Phí cam kết rút vốn kể từ thời điểm thỏa thuận cho vay có hiệu lực đến ngày giải ngân vốn vay lần đầu.Các loại phí khác liên quan đến hoạt động cho vay được quy định cụ thể tại văn bản quy phạm pháp luật liên quan.
Phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại: Tổ chức tín dụng và khách hàng được thỏa thuận về việc phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật đối với trường hợp tổ chức tín dụng hoặc khách hàng không thực hiện đúng nội dung trong thỏa thuận cho vay, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 13 Thông tư này.
Tổ chức tín dụng và khách hàng có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp tổ chức tín dụng và khách hàng có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.
Như vậy, kể từ ngày 15/3/2017 khi giao dịch vay vốn với các Tổ chức tín dụng phải bảo đảm về chủ thể vay vốn; lãi suất cho vay; thỏa thuận về các loại phí; thỏa thuận về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại theo quy định trên.
Kiểm sát viên cần nắm vững những quy định mới về hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng để vận dụng kiểm sát việc giải quyết các vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng của Tòa án một cách có căn cứ, đúng pháp luật.