Ngày 27 tháng 11 năm 2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ luật Hình sự 2015, và được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (gọi tắt là Bộ luật Hình sự 2015), có hiệu lực ngày 01/01/2018. Bộ luật này có nhiều điểm mới về tuổi chịu trách nhiệm hình sự so với Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), cụ thể như sau.
Thứ nhất, đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 18 tuổi.
Khoản 1 Điều 12 Bộ luật Hình sự 1999 quy định: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm”.
Tuy nhiên, trong phần các tội phạm thì Bộ luật Hình sự 1999 quy định 2 tội danh mà chủ thể phải là người đã thành niên nghĩa là phải đủ 18 tuổi chứ không phải đủ 16 tuổi như quy định tại Khoản 1 Điều này gồm Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115) và Tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 116).
Khoản 1 Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác”.
Do đó, Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 khắc phục thiếu sót của Bộ luật Hình sự 1999 và đã bổ sung cụm từ “trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác”, đồng thời quy định cụ thể vào các điều luật (Điều 145 - Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; Điều 146 - Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi) thì người phạm tội phải là người đủ 18 tuổi trở lên. Ngoài ra, Bộ luật Hình sự 2015 còn quy định 02 tội danh mà người phạm tội phải đủ 18 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm hình sự (Điều 325 - Tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người dưới 18 tuổi phạm pháp; Điều 329 - Tội mua dâm người dưới 18 tuổi), trong khi đó luật cũ không giới hạn độ tuổi. Và bổ sung thêm 1 tội danh mà chỉ có người đủ 18 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự - Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147).
Thứ hai, đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự 1999 quy định: “Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Với quy định này thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tất cả các loại tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định trong Bộ luật Hình sự 1999.
Đối với Khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 thì liệt kê các tội danh cụ thể chứ không quy định chung như Khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự 1999, và người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về 28 tội trong trường hợp tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng gồm: tội giết người (Điều 123), tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134), tội hiếp dâm (Điều 141), tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 12), tội cưỡng dâm (Điều 143), tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144), tội mua bán người (Điều 150), tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151), tội cướp tài sản (Điều 168), tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169), tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170), tội cướp giật tài sản (Điều 171), tội trộm cắp tài sản (Điều 173), tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178), tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 248), tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249), tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250), tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251), tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252), tội tổ chức đua xe trái phép (Điều 265), tội đua xe trái phép (Điều 266), tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 286), tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 287), tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác (Điều 289), tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290), tội khủng bố (Điều 299), tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 303), tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 304).
Như vậy, theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tất cả các loại tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 28 tội danh được liệt kê nêu trên trong trường hợp tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, đối với 28 tội danh được liệt kê trên thì người phạm tội chỉ cần phạm vào các tội này trường hợp tội phạm rất nghiêm trọng là phải chịu trách nhiệm hình sự, không phân biệt vô ý hay cố ý như Bộ luật Hình sự 1999.
Bên cạnh đó, đối với một số tội phạm có tính phổ biến, thường xuyên xảy ra ở lứa tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi như cố ý gây thương tích, trộm cắp tài sản, đua xe trái phép…nên Bộ luật Hình sự 2015 đã không loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội ở độ tuổi này, vì thế, người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội trộm cắp tài sản (Điều 173) nhưng không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) trong trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Những quy định trên của Bộ luật Hình sự năm 2015 vừa mang tính răn đe, đối với người chưa thành niên khi việc áp dụng các biện pháp khác từ gia đình, nhà trường, xã hội không mang lại hiệu quả, vừa mang tính giáo dục nhằm tạo điều kiện để người chưa thành niên tiếp tục phát triển về thể chất và tinh thần, sửa chữa thiếu sót… theo đúng tinh thần của Hiếp pháp năm 2013 về quyền con người và Công ước 1989 của Liên Hiệp quốc về quyền trẻ em.