Theo đơn khởi kiện của bà Bùi Thị Hồng Đ, căn nhà và đất toạ lạc tại số 36 đường Bùi Thị Xuân, phường Thới Bình, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ có nguồn gốc là của cha, mẹ, ông Bùi Công T và bà Hứa Xuân L tạo lập. Ông T và bà L có 09 người con gồm Bùi Thị Hồng Đ, Bùi Công D, Bùi Thị Hồng Y, Bùi Thị Hồng H, Bùi Thị Hồng N, Bùi Thị Phương D, Bùi Công Đ, Bùi Thị Trúc M, Bùi Công H.
Ngày 13/01/2003, bà Hứa Xuân L chết không để lại di chúc, tất cả 08 người em của nguyên đơn tự nguyện lập văn bản tặng cho quyền di sản thừa kế do bà L để lại ½ căn nhà và đất được công chứng và được hợp thức hoá lãnh sự theo quy định. Đồng thời, ông T cũng lập hợp đồng tặng cho ½ tài sản còn lại (có công chứng) cho nguyên đơn nên nguyên đơn mới đi đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất số CH00384 ngày 22/11/2010.
Nguyên đơn đã để căn nhà và đất trên cho bà Bùi Thị Hồng N ở nhờ trông nom giùm vì tại thời điểm đó bà đang ở Bà Địa – Vũng Tàu. Hiện nay bà về Cần Thơ sinh sống nên bà yêu cầu bà N giao trả lại nhà và đất nêu trên.
Bà Bùi Thị Hồng N có đơn yêu cầu phản tố yêu cầu Toà án bác đơn khởi kiện của bà Đ, huỷ bỏ các hợp đồng tặng cho quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất của ông Bùi Công T và hợp đồng tặng cho của bà Bùi Thị Hồng N, bà Bùi Thị Hồng H và ông Bùi Công D. Huỷ các văn bản uỷ quyền và các văn bản tặng cho của các ông, bà: Bà Bùi Thị Hồng Y, bà Bùi Thị Phương D, ông Bùi Công Đ, bà Bùi Thị Trúc M, ông Bùi Công H và yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật tài sản của ông Bùi Công T và bà Hứa Xuân L để lại. Lý do bà Hứa Xuân L bị bệnh tâm thần có giấy xác nhận và mất ngày 13/01/2003, không để lại di chúc, ông Bùi Công T đã đi nước ngoài từ năm 1996 và chết tại Việt Nam vào ngày 18/4/2010. Ngày 17/4/2010 bà Bùi Thị Hồng Đ yêu cầu bà và bà H ông D đến Văn phòng công chứng Trần Văn Mỹ để ký vào văn bản do bà Đ đưa, bà Đ nói làm giấy chứng tử cho ông T khi ông T sắp chết. Sau này đến năm 2013 bà mới phát hiện ra đó là văn bản tặng cho quyền hưởng di sản.Tại thời điểm ký tặng cho tại Văn phòng công chứng Trần Văn Mỹ, ông T hấp hối còn ông D bị bệnh tâm thần nên các văn bản đã được công chứng hoàn toàn không hợp pháp. Còn các anh em còn lại làm văn bản bản tặng cho tài sản hay không thì bà không biết. Trước khi đi Mỹ ông T có làm văn bản uỷ quyền lại cho bà Bùi Thị Hồng Y quản lý, nhưng bà N mới là người ở tại căn nhà trên từ năm 1977 đến nay.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm giải quyết vụ án có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bác yêu cầu phản tố của bị đơn nhưng có xem xét công sức giữ gìn, bảo quản tài sản cho bị đơn. Sau khi nghị án, Hội đồng xét xử đã thống nhất với đề nghị của Viện kiểm sát, tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Qua phiên tòa, Kiểm sát viên tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm thực tiễn đặc biệt là kỹ năng hỏi, xử lý tình huống, ứng xử tại phiên tòa, đồng thời cũng thấy được những tồn tại trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Từ đó, giúp Kiểm sát viên nâng cao trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh nghề nghiệp, hoàn thiện những kỹ năng và nhận thức khi giải quyết các vụ việc dân sự theo quy định của luật mới, góp phần thực hiện tốt trách nhiệm, quyền hạn của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát giải quyết án dân sự nói chung và kiểm sát xét xử dân sự nói riêng.