Vừa qua, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Lai phối hợp với Tòa án nhân dân huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ tổ chức phiên tòa dân sự rút kinh nghiệm theo hình thức “số hóa hồ sơ vụ án” và trình chiếu tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh. Vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị V với bị đơn ông Nguyễn Văn M và bà Lê Thị Thu T.
(Kiểm sát viên trình chiếu chứng cứ)
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị V trình bày: Cha của bà là ông Nguyễn Văn V (chết năm 1998), mẹ bà là bà Nguyễn Thị S (chết năm 1976). Trong quá trình chung sống cha mẹ bà có sinh được 07 người con trong đó có bà và ông M. Lúc sinh thời cha mẹ có tạo lập được khoảng 12 công đất và đã chia cho các con. Sau khi cha mất, phần đất tại thửa số 933, 174 bà đã làm thủ tục thừa kế của cha mẹ nên bà đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vào năm 2014 vợ chồng ông M và bà T về cất nhà ở trên phần đất thuộc thửa đất số 933 và chiếm sử dụng một phần đất thửa đất số 174 do bà đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nay bà Vàng yêu cầu ông M, bà T trả lại phần đất tại thửa số 933, diện tích 51,8 m2 (loại đất CLN); phần đất tại thửa số 174, diện tích 416,1 m2 (loại đất LUC). Đối với tất cả các cây trồng và chuồng heo, yêu cầu ông M tự chặt bỏ, di dời, bà sẽ không bồi thường.
Bị đơn trình bày: Nguồn gốc phần đất tranh chấp là của cha mẹ ông tạo lập được. Vào năm 1982 sau khi ông cưới vợ thì cha ông phần đất gồm 01 cái bờ và 01 cái mương (khi cho chỉ nói miệng chứ không có giấy tờ) phần đất có chiều ngang 11,5m, chiều dài hết hai thửa đất số 933 và 174. Ông ở trên được một thời gian do phải đi làm ăn xa nên không ở trên đất, đến năm 1996 ông mới quay về cất lại nhà để ở được một thời gian thì ông tiếp tục đi làm xa ở Hà Tiên. Đến năm 2014 ông mới quay về để cất nhà ở trên phần đất tại thửa 933 và sử dụng một phần thửa đất 174 như hiện nay. Ông thừa nhận trước đây vào năm 2005 ông có ký vào tờ nhượng quyền hưởng di sản thừa kế nhưng ông ký để bà V đứng tên quyền sử dụng đất, còn phần đất cha cho là của ông. Ông yêu cầu được ổn định sử dụng trên hai thửa đất này, yêu cầu bà V tách giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông phần đất ông đang sử dụng.
Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Lai: Phần đất tranh chấp có nguồn gốc do cha mẹ để lại, khi cha mẹ mất, tất cả những người trong hàng thừa kế đã làm tờ nhượng quyền hưởng di sản thừa kế theo pháp luật cho bà Nguyễn Thị V được hưởng toàn bộ phần đất của cha mẹ gồm các thửa 173, 174 và 367. Sau đó bà V đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các thửa đất nêu trên. Như vậy phần đất tranh chấp nguyên đơn bà V đã được thừa kế và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng theo quy định của pháp luật. Đối với cây trồng trên đất các cây do ông M trồng và không di dời được thì bà V phải trả giá trị cây trồng đó cho ông M theo biên bản định giá. Đối với chuồng heo theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ chỉ còn nền xi măng và phần xây gạch nên yêu cầu ông M tự tháo dở, di dời.
Tuyên án, Hội đồng xét xử thống nhất với quan điểm của Viện kiểm sát, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và một phần yêu cầu phản tố của bị đơn.
Phạm Hoài Hận
VKSND huyện Thới Lai