1. Huyện Thới Lai:
Giám đốc trộm cắp tài sản, bị truy tố
Vừa qua, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Lai đã ban hành cáo trạng truy tố bị can Cao Bá Hùng, sinh năm 1983, thường trú khu vực Thới Ngươn B, phường Phước Thới, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ; về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
(Bị can Cao Bá Hùng)
Cao Bá Hùng là giám đốc của Cty trách hiệm hữu hạn Thuận Phát Group, do trước đó Hùng có nhận san lấp ao cho chị Lan nhà ở xã Định Môn nên vào khoảng 10 giờ sáng ngày 24/3/2023 Hùng đi trên đường tỉnh lộ 922 vô nhà chị Lan để khảo sát diện tích ao san lắp. Khi đi gần tới cầu Vàm Nhon khoảng 01 km thuộc địa phận ấp Định Hòa A, xã Định Môn thì Hùng nhìn thấy có một số cặp thép I300 để ở 03 vị trí khác nhau, mỗi vị trí cách nhau khoảng 200 m nên Hùng nảy sinh ý định lấy trộm các cặp thép trên. Đến khoảng hơn 09 giờ ngày 26/3/2023, Hùng dẫn Nguyễn Thanh Tuấn là người làm công cho Hùng và Trương Văn Thanh là người san lấp mặt bằng cùng vô nhà chị Lan để kiểm tra lại khối lượng đất, cát san lấp, sau khi khảo sát xong thì trên đường về Hùng có chỉ Tuấn và Thanh nói là “số cặp thép I300 để sát mé lộ 922 bị lỗi có mua không, thằng em đang thi công công trình do sai thiết kế cần bán gấp để kiểm tra sẽ không cho thi công”, sau đó cả ba chạy về quán cà phê Quyến Luyến thuộc quận Ô Môn uống cà phê. Tại đây, Hùng nói bán số thép trên với giá 12.000 đồng/01 kg nên Tuấn và Thanh nói để kiếm người bán. Đến khoảng hơn 11 giờ cùng ngày thì Thanh điện cho Hùng nói là Thanh sẽ mua số thép trên với giá 10.500 đồng/01 kg nhưng Hùng không đồng ý. Đến khoảng hơn 12 giờ cùng ngày, Tuấn đến Công ty Vạn Đạt Thành II có địa chỉ ở phường Phước Thới, quận Ô Môn để liên hệ bán số thép trên. Tại đây , Tuấn gặp chị Lê Thị Mỹ Dung là người ở lại Công ty (không phải là nhân viên) nên Tuấn nhờ Dung cho Tuấn số điện thoại của chị Võ Thị Thía là quản lý của Công ty Vạn Đạt Thành II (lúc này chị Thía đang ở Hậu Giang), Tuấn có nói với chị Thía thông qua mạng xã hội zalo là có số lượng thép I300 đã hàn ghép theo hình chữ H có khối lượng khoảng 10 tấn muốn bán giá 14.000 đồng/1kg nhưng Thía chỉ đồng ý mua giá 13.000 đồng/1kg thì Tuấn đồng ý bán và gọi điện thông báo cho Hùng hay là đã có người mua số thép trên. Đồng thời, Tuấn nói với Hùng giảm thêm 500 đồng/01 kg (tức là còn 11.500 đồng/01 kg so với giá ban đầu Hùng nói 12.000 đồng/01 kg) để hưởng tiền chênh lệch và Hùng đồng ý bán và yêu cầu Tuấn phải kêu bên mua thép phải cẩu thép trong ngày. Sau khi được sự đồng ý bán của Hùng, Tuấn hẹn với chị Thía lúc 14 giờ Tuấn đợi ở Công ty của chị Thía để cùng đi đến nơi để các cặp thép I300 và Thía kêu tài xế xe cẩu tên Nguyễn Văn Nguyên của Công ty vô để chở về nhà kho của Công ty. Đến khoảng hơn 14 giờ thì Tuấn cùng Thía chạy vô các điểm để các cặp thép I300 trước để đợi xe cẩu chạy vô, đến gần 15 giờ thì xe cẩu chạy vô điểm thứ nhất là cống gần cầu Vàm Nhon cẩu 03 cặp thép I300 hình chữ H. Đến điểm thứ 2 (cách vị trí 01 hơn 200 m) tiếp tục cẩu thêm 04 cặp thép I300 hình chữ H; Đến điểm thứ 3 (cách vị trí thứ 2 hơn 200 m) cẩu thêm ba cặp thép I300 hình chữ H. Sau đó xe cẩu chạy về trạm cân gần cây xăng Bảo Bảo trên Quốc Lộ 91 để cân khối lượng số thép là 4.250kg, Tuấn là người giữ phiếu cân nặng và chụp hình gửi lại cho Cao Bá Hùng. Tổng số tiền mà chị Thía phải trả cho bị can Hùng và Tuấn là 56.750.000 đồng. Do chị Thía không đủ tiền mặt để trả nên Thía yêu cầu Tuấn đưa số tài khoản để chuyển tiền nên Tuấn điện thoại nói Hùng gửi số tài khoản của Hùng qua cho Tuấn để Tuấn gửi cho Thía chuyển khoản. Sau khi có số tài khoản thì Thía đã chuyển vào tài khoản của bị can Hùng số tiền là 48.875.000 đồng, số tiền chênh lệch còn lại thì Tuấn hưởng là 6.375.000 đồng và Thía cho thêm 1.500.000 đồng là tiền hoa hồng, tổng cộng Tuấn được hưởng là 7.875.000 đồng.
Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc UBND huyện Thới Lai, kết luận: 10 cặp thép I300 có sơn màu xám tương đương với 20 cây thép I300 có giá là 100.000.000 đồng.
Hồ sơ vụ án đã được chuyển đến Tòa án nhân dân huyện Thới Lai xét xử theo thẩm quyền.
2. Thới Lai:
Tổ chức phiên tòa dân sự rút kinh nghiệm “số hóa hồ sơ vụ án”
Vừa qua, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Lai phối hợp với Tòa án nhân dân huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ tổ chức 02 phiên tòa dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất” rút kinh nghiệm, số hóa hồ sơ vụ án và trình chiếu tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh.
(Kiểm sát viên trình chiếu tại phiên tòa)
Vụ thứ nhất giữa nguyên đơn bà Bùi Thị B với bị đơn ông Trần Văn P.
Tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày: Nguồn gốc phần đất tranh chấp là cha bà tặng cho năm 1989, khi được tặng cho đất có diện tích 580m2 thuộc thửa 1114, tờ bản đồ số 04, tọa lạc tại ấp Thới Thuận, xã Thới Thạnh, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ. Sau khi được tặng cho bà có đăng ký quyền sử dụng đất ở địa phương và có tên trong sổ mục kê. Đến năm 2019, khi bà làm thủ tục chuyển nhượng thửa đất 851 thì phát hiện phần đất của bà đã bị ông Trần Văn P lấn chiếm và đã làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đồng thời con ông P cũng đã xây dựng nhà trên phần đất lấn chiếm diện tích 580m2 thuộc thửa 1114, tờ bản đồ số 04. Do không thể thỏa thuận được nữa nên bà yêu cầu Tòa án buộc ông P phải trả lại toàn bộ phần đất đã lấn chiếm có diện tích 465.2m2 (như trong bản vẽ) còn nhà trên phần đất của con ông P thì bà không yêu cầu phải dỡ nhà đi trả lại đất cho bà, đối với mộ trên đất đây là chị ruột của bà nên bà không yêu cầu phải di dời.
Bị đơn trình bày, khoảng năm 1990, ông được cha vợ và cũng là cha ruột của bà B tặng cho 02 công đất ruộng, nhưng sau đó cha vợ đổi cho ông phần đất vườn 900m2, ông có đăng ký trong sổ mục kê của địa phương. Trong quá trình sử dụng thì ông có mua thêm của bà S và ông N một phần đất giáp ranh với ông N, đồng thời cũng để ranh đất của ông được thẳng. Vì vậy, khi làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì diện tích đất tăng lên chứ không phải lấn chiếm của bà B mà tăng lên. Khi ông làm thủ tục đo đạc để cấp giấy chứng nhận thì có mặt bà B chứng kiến chỉ ranh sau đó thì bà bỏ đi, nhưng sau đó bà B có ký giáp ranh. Ngoài ra, trước khi làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông có tặng cho con ông một phần đất để cất nhà, vị trí nhà (như trong bản vẽ). Ông xác định Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông hoàn toàn phù hợp theo quy định và bà B yêu cầu khởi kiện không có căn cứ nên ông yêu cầu Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của bà B.
Viện kiểm sát và Hội đồng xét xử nhận định: Qua đo đạc thực tế phần đất của nguyên đơn có diện tích là 131,4m2, thiếu 448,6m2 so với diện tích theo sổ mục kê. Đối với phần đất của bị đơn qua đo đạc thực tế diện tích là 1.212,7m2, thiếu 224,8m2 so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp. Tuy nhiên, trong sổ mục kê ban đầu phần đất của bị đơn chỉ có diện tích 900m2, cộng với phần đất bị đơn được ông Nguyễn Văn N tặng cho là 39,6m2 và phần đất bị đơn mua của bà Lê Thị S là 74,8m2, phần còn lại của bị đơn là 1.212,7m2 – (39,6m2 + 74,8m2) = 1.098,3m2, dư so với diện tích theo sổ mục kê là 1.098,3m2 - 900m2 = 198,3m2. Đồng thời, khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bị đơn thì có đo đạc thực tế và nguyên đơn bà B có ký giáp ranh nhưng bà B không có chứng kiến, nên việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bị đơn không đảm bảo trình tự thủ tục quy định. Trên cơ sở đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Vụ thứ hai giữa nguyên đơn ông Võ Kim D với bị đơn ông Võ Văn H.
Tại tòa, nguyên đơn trình bày: Yêu cầu bị đơn phải chuyển đổi đất trả lại hiện trạng đất mà nguyên đơn được cấp theo thửa đất số 68 mà nguyên đơn đang đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Có trách nhiệm gỡ bỏ hàng rào đã xây dựng trên đường nước dẫn vào phần đất của bà D. Bà thống nhất diện tích hàng rào trên đất tranh chấp theo biên bản thẩm định ngày 17/3/2023 tuy nhiên bà không đồng ý hỗ trợ chi phí di dời hàng rào lưới B40 do ông H ý tự rào.
Bị đơn trình bày, không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà D sử dụng thửa đất (A) và (B), ông sử dụng thửa đất (C) và (D), bị đơn có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn là ông yêu cầu được tiếp tục sử dụng đất tại thửa 68 diện tích tại điểm A là 1.543,7 m2, do đất này ông H đổi đã đổi với ông Trịnh Văn G tại thửa 69 vào ngày 31/10/1991, diện tích đất tại điểm D là 1.389,5m2 có tờ giao kèo và ông sử dụng liên tục cho đến nay, sau này vào ngày 16/7/2002 bà Võ Kim D chuyển nhượng đất của ông G hiện tại, ông G đang sử dụng thực tế là đất đã đổi rồi. Về hàng rào ông không đồng ý gỡ bỏ do hàng rào này nằm trên quyền sử dụng đất của ông.
Viện kiểm sát và Hội đồng xét xử nhận định: Theo hồ sơ vụ án thể hiện tại tờ giao kèo ngày 31/10/1991 thì giữa ông Trình Văn G với ông Võ Văn H có đổi đất, theo đó ông H lấy khúc trong, ông G khúc ngoài sát đất ông S. Các bên đã sử dụng đất ổn định từ năm 1991 đến nay. Từ đó chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
|
|
|
Phạm Hoài Hận VKSND huyện Thới Lai |