1. Phiên tòa dân sự “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng tín dụng”
Ngày 25/02/2025 Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thủy phối hợp với Tòa án nhân dân quận tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh N với bị đơn bà Nguyễn Thị T.
Nội dung vụ án: ngày 02/4/2016 bà Nguyễn Thị Cẩm H lập hợp đồng tặng cho ông Nguyễn Thanh N QSDĐ tại thửa 1678 diện tích 160m2, loại đất ODT,GCNQSDD số ngày 30 tháng 5 năm 1996 do UBH Ô Môn tỉnh Cần Thơ (cũ) cấp cho bà Nguyễn Thị Cẩm Hường.
Sau đó chỉnh lý sang tên cho ông Nguyên Thanh N ngày 02/04/2016 giấy chứng nhận số 005286, tại thửa 1678 diện tích 160m2, loại đất ODT.
Đến ngày 20/7/2020, giữa ông N ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên cho bà T (hợp đồng có công chứng), với giá 272.000.000 đồng. Sau đó, ngày 21/7/2020 ông N và bà T ký Hợp đồng sửa đổi bổ sung Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để điều chỉnh giá chuyển nhượng thành 3.000.000.000 đồng.
Sau khi ký hợp đồng, bà T đã được sang tên trên GCNQSDD, hiện tại bà T đã thế chấp GCNQSDD cho Ngân hàng T để đảm bảo khoản vay của bà T.
Do bà T không thanh toán tiền chuyển nhượng cho ông N, nên ông N khởi kiện yêu cầu:
Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 55 và Hợp đồng sửa đổi bổ sung số 63 ngày 21/7/2020 giữa ông N và bà T được công chứng tại Văn phòng Công chứng Ngô Công Quốc T, thành phố T.
Hủy phần cước chú sang tên bà Huỳnh Thị T. Yêu cầu hủy hợp đồng thế chấp số 002/2020/6283065/HĐBĐ ngày 23/7/2020 và Hợp đồng tín dụng số 002/2020/6283065/HĐTD ngày 23/7/2020 giữa bà Huỳnh Thị T, ông Vũ Việt C với Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) -Chi nhánh T.
Bà T thừa nhận có ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông N với giá 3.000.000.000 đồng và đã trả đủ tiền (trả tiền mặt). Tuy nhiên, nhằm tạo điều kiện cho gia đình ông N sinh sống ổn định nên bà đã cho gia đình ông T ở mà không thu tiền cho đến nay. Bà T có yêu cầu phản tố đề nghị ông N cùng gia đình di dời trả lại nhà đất trên trả cho bị đơn.
Căn cứ khoản 2 Điều 2 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 55 tại Văn phòng Công chứng Ngô Công Quốc T, thành phố T và Hợp đồng sửa đổi bổ sung số 63 ngày 21/7/2020 giữa ông Nguyễn Thanh N và bà Huỳnh Thị T quy định bà T (bên nhận chuyển nhượng B) thanh toán cho ông Nguyễn Thanh N (bên bán A) 3.000.000.000 đồng một lần.
Bà T cho rằng đã trả đủ số tiền 3.000.000.000 đồng cho ông N nhưng bà không có chứng cứ chứng minh đã trả đủ số tiền trên.
Bà T cũng cho rằng, do nguyên đơn không có chỗ ở nên bà T cho ở nhờ nhưng cũng không có chứng cứ nào chứng minh.
Căn cứ vào biên bản thẩm định và tại phiên tòa đại diện ngân hàng thừa nhận thẩm định giá phần đất trên là ngày 20/7/2020 là chưa đúng quy định. Ngày 20/7/2020 giấy đất vẫn đứng tên ông N chưa sang tên cho bà T, khi thẩm định ông N không biết, không có ý kiến của ông N.
Từ những căn cứ trên Kiểm sát viên đề nghị, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
Quan điểm của Viện kiểm sát được Hội đồng xét xử chấp nhận./.
2. Phiên tòa dân sự rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp chia tài sản thừa kế”
Ngày 24/02/2025, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thủy phối hợp với Tòa án nhân dân quận tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm vụ án dân sự “Tranh chấp chia tài sản thừa kế” giữa nguyên đơn: Bà Đinh Lê Diễm T, sinh năm 1975, địa chỉ: 1695 Bùi Hữu N, phường Long T, quận T, thành phố T với bị đơn ông Đinh Trường G, sinh năm 1970, địa chỉ: 1689 Bùi Hữu N, phường T, quận B, thành phố T.
Nội dung vụ án: ông Đinh Thành S, sinh năm 1947 và vợ bà K, ông S và bà Lê Thị K; cả hai có 05 người con (Đinh Thị Thanh L, sinh năm 1968; Đinh Trường G, sinh năm 1970; Đinh Lê Kim Thùy, sinh năm 1972; Đinh Lê Diễm T, sinh năm 1975; Đinh Lê Diễm K, sinh năm 1978); Khi sinh thời ông S và bà K có tạo lập được tài sản chung là Quyền sử dụng đất (QSDĐ) thửa 38, tờ bản đồ 22 diện tích đất 80m2 loại đất ODT GCNQSDĐ số CH 03752 ngày 02 tháng 8 năm 2011cấp cho Đinh Thành Sơn tọa lạc tại đường tỉnh 918, phường Long Tuyền, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ, và tài sản gắn liền với đất là căn nhà cấp 4; năm 2017 ông S chết không để lại di chúc.
Theo đơn khởi kiện bà Đinh Lê Diễm T yêu cầu Tòa án nhân dân quận Bình Thủy chia di sản thừa kế di sản của ông Đinh Thành S (là ½ QSDĐ và nhà như đã nêu) để lại cho vợ là bà Lê Thị K và 05 người con ông S theo pháp luật.
Qua xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án xác định: QSD Đ và nhà như đã nêu trên được hình thành trong thời kỳ hôn nhân. Ông S bà K kết hôn năm 1994, từ đó xác định đây là tài sản chung của ông S và bà K. Nên mỗi người được quyền sử dụng, sở hữ ½ khối tài sản chung. Do ông S chết không để lại di chúc nên việc thừa kế được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Tại Chứng thư thẩm định giá số 215/2024/119 ngày 04/12/2024 của Công ty TNHH thẩm định giá và đào tạo Song Pha thì giá của tài sản nêu trên là 1.608.692.000 đồng (QSDĐ là 1.484.4000.000đồng, nhà là 112.681.229đồng, mái che 1 là 8.669.419 đồng, mái che 2 (mái che làm sau là 2.942.129 đồng).
Căn cứ tài liệu có trong hồ sơ, kết quả thẩm định giá như đã nêu và tranh luận tại phiên tòa Kiểm sát viên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, phân chia di sản, cụ thể như sau:
Bà K được ½ giá trị đất và nhà trên và một kỷ phần nhỏ của ông S để lại. Bà K được nhận ½ di sản và 1 phần kỷ phần của ông S tổng số tiền là 936.687.000 đồng. Kỷ phần thừa kế được hưởng chia cho 6 phần: 802. 875.324:6 = 133.812.554 đồng. Bà K tự nguyện tặng cho ½ di sản trên và một kỷ phần thừa kế ông S để lại. Bà đồng ý tặng cho cháu Đinh Huỳnh G, ông G tự nguyện tặng kỷ phần của của ông cho con trai là Đinh Huỳnh G sinh ngày 27/9/2009 chưa trưởng thành có cha mẹ là ông G và bà L giám hộ vì vậy nên giao phần đất và nhà cho cháu G, ông G và bà L là người giám hộ. Ông G, bà L có trách nhiệm trả lại tiền kỷ phần thừa kế cho bà T, bà L, bà K, bà T.
Quan điểm của Viện kiểm sát được Hội đồng xét xử chấp nhận./.
Lê Thị Nga
VKSND quận Bình Thủy