Ngày 31/10/2025, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) Khu vực 2 - Cần Thơ phối hợp với Tòa án nhân dân khu vực 2 tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn: Bà Nguyễn Ngọc L với các bị đơn bà Nguyễn Thị S, Ông Bùi Thanh H.
Theo các tài liệu các bên cung cấp: Nguyên đơn nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị S, bà T, 3 thửa đất gồm: thửa đất số 57, tờ bản đồ số 32, địa chỉ thửa đất tại tỉnh lộ 917, phường Trà Nóc, thành phố Cần Thơ với diện tích 169,9 m2; thửa đất số 561, tờ bản đồ số 32, tại khu vực 2, phường Trà Nóc, thành phố Cần Thơ với diện tích 552,3 m2 liền kề với thửa đất số 57, tờ bản đồ số 32. thửa đất số 562, tờ bản đồ số 32 tại khu vực 2, phường Trà Nóc, thành phố Cần Thơ với diện tích 210,4 m2 và nguyên đơn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, hiện bà L làm thủ tục nhập 3 thửa đất trên lại thì phát hiện ra thiếu đến 210 m2, lý do là bà S và bà T khi chuyển nhượng cho bà L đã chỉ sai ranh mốc các thửa đất, và do lệch ranh mốc nên phần đất tại thửa số 562, tờ bản đồ số 32 của bà L đã bị ông H lấn chiếm sang toàn bộ. Do vậy, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bà S, bà T, phải có trách nhiệm giao đủ diện tích và đúng vị trí cho nguyên đơn, đối với phần ông H đã lấn chiếm.
Gia đình bà S có chuyển nhượng cho bà L 03 thửa đất như bà L trình bày, khi chuyển nhượng có nhờ đơn vị đo đạc đến để đo cắm ranh mốc rõ ràng. Trong phần diện tích chuyển nhượng cho bà L có 84 m2 nằm ngoài giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do diện tích này trước đây bà S mua từ người thân của bà là bà O, bà O sau đó mới bán cho ông N, nhưng diện tích bà O đã bán cho bà S thì chưa tách giấy. Khi bán cho bà L thì hai bên có thuê công ty đo đạc để đo đạc phần đất, bà L thống nhất nhận đất do bà S giao và xây tường rào quản lý, sử dụng đến nay, nay không có căn cứ cho rằng Bà S giao thiếu. Đối với diện tích còn thiếu thì do chênh lệch giữa việc đo bằng thước dây trước đây và đo bằng máy như hiện nay, do vậy không phải lỗi của bà S.
Năm 2019, ông H có nhận chuyển nhượng phần đất tại thửa 107, tờ bản đồ số 32, khu vực 2, tọa lạc tại phường Trà Nóc thành phố Cần Thơ từ ông H con bà S, hiện ông H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đất có vị trí giáp ranh với đất của bà L nên khi làm thủ tục chuyển nhượng sang tên thì bà L có ký giáp ranh với cho ông H. Ranh mốc các thửa đất là rõ ràng, ông H chỉ sử dụng trong phần diện tích ông H nhận chuyển nhượng nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà L.
Sau phần hỏi, Viện kiểm sát nêu quan điểm: Căn cứ tài liệu và lời khai của và tranh luận của các đương sự tại phiên tòa nhận thấy, nguyên đơn và bị đơn đã ký ba hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đúng quy định của pháp luật. Căn cứ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 1208 ngày 20/12/2016 bà L ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Trương Ngọc B và bà Nguyễn Thị S tại thửa đất số 57, tờ bản đồ số 32, địa chỉ thửa đất tại tỉnh lộ 917, phường Trà Nóc, thành phố Cần Thơ, diện tích 169,9 m2 chuyển nhượng cho bà L diện tích 169,9 m2. Bà L được chỉnh lý sang tên ngày 16/01/2017, bà L sử dụng ổn định từ đó đến nay không tranh chấp.
Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất nguyên đơn với bà S và bà T là chuyển nhượng theo vị trí chỉ thực tế đất nguyên đơn muốn mua, không có sẳn thửa đất riêng mà trên một miếng đất cắt ra từ đất tổng và đo đạc cắm ranh nguyên đơn đã giao đủ tiền và bị đơn đã giao đất cho nguyên đơn. Bà L đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như trên và đã xây dựng ranh đất và ở ổn định không tranh chấp. Bà L cho rằng phía ông H lấn chiếm phần đất của bà là không có căn cứ. Vì bà L chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất 562, tờ bản đồ số 32 với diện tích 210,4 m2 ngày 30/03/2017 và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 27/04/2017. Ông H ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông H ngày 22/10/2020 và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 02/12/2020, trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông H thửa đất của bà L 562 kế bên là thửa 107 của ông H và hồ sơ cấp giấy bà L là người ký giáp ranh. Bà L được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trước ông H (bà L được cấp giấy năm 2017 và bà đã xây tường rào kiên cố, ông H được cấp năm 2020 sau bà Lan 03 năm. Do đó không có cơ sở nói ông H lấn chiếm đất của bà L là không có căn cứ. Vì vậy yêu của nguyên đơn là không có cơ sở xem xét.
Sau khi nghị án, Hội đồng xét xử đã thống nhất với đề nghị của Viện kiểm sát, tuyên bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Qua phiên tòa, Kiểm sát viên tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm thực tiễn đặc biệt là kỹ năng hỏi, xử lý tình huống, ứng xử tại phiên tòa, đồng thời cũng thấy được những tồn tại trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Từ đó, giúp Kiểm sát viên nâng cao trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh nghề nghiệp, hoàn thiện những kỹ năng khi giải quyết các vụ việc dân sự theo quy định của luật mới, góp phần thực hiện tốt trách nhiệm, quyền hạn của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát giải quyết án dân sự.
Lê Thị Nga
VKSND Khu vực 2 - Cần Thơ
VKSND Khu vực 2 - Cần Thơ