Một trong những phẩm chất cao đẹp nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh là suốt cả cuộc đời tận tụy, hy sinh vì nước, vì dân và không một chút riêng tư. Trước lúc đi xa, Bác đã viết trong Di chúc: “Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động - đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, nhân dân sống kiếp đời nô lệ, lầm than, biết bao cuộc khởi nghĩa đấu tranh anh dũng, bất khuất giành độc lập dân tộc đều lần lượt bị thất bại. Chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, từ thuở niên thiếu, Nguyễn Tất Thành đã nung nấu ý chí, khát vọng cứu nước, cứu dân. Năm 1911, Người đã lên tàu rời bến Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước với hành trang duy nhất mang theo trong mình là lòng yêu nước và khát vọng giành lại nền độc lập cho đất nước. Trên con đường cứu nước đầy sóng gió, chông gai, lòng yêu nước, thương dân, tất cả vì dân, vì nước luôn canh cánh, thôi thúc Người không quản gian nguy, kiên định, dũng cảm và sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện bằng được mục tiêu giành lại độc lập cho đất nước, đem lại hạnh phúc cho đồng bào.
Sở dĩ Chủ tịch Hồ Chí Minh chấp nhận dấn thân vào thực tiễn đấu tranh để mưu cầu độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam và toàn nhân loại, bởi Người nhận thức rõ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do!”, cùng với hoài bão, ham muốn, ham muốn tột bậc của Người là làm sao cho nước nhà độc lập, dân ta được tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, được học hành tiến bộ, được chăm sóc sức khoẻ, được tự do đi lại, được hưởng quyền dân chủ, có đời sống ấm no hạnh phúc. Với lẽ sống “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” và đức hy sinh vì nước, vì dân, Người không ở ngôi dinh thự của Phủ toàn quyền Đông Dương được lấy làm Phủ Chủ tịch, mà chọn ngôi nhà sàn đơn sơ, chỉ có hai phòng nhỏ là nơi Người vừa ở vừa làm việc. Phương tiện sinh hoạt của một vị Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước chỉ là một chiếc giường đơn chiếu cói, một tủ quần áo, một chiếc máy thu thanh, một đôi dép cao su, hai bộ quần áo kaki… Bữa ăn hàng ngày hết sức dân dã thường chỉ có canh cua, tương, cà, dưa muối, cá kho với lá gừng… Thật là một sự giản dị hết sức vĩ đại. Thủ tướng Phạm Văn Đồng kể rằng, lúc ở chiến khu, Người sống chung với anh em trong một cơ quan, làm việc, học tập, ăn ở, sinh hoạt đều như anh em. Người thích đi bộ, tắm sông, hút thuốc lá và thỉnh thoảng uống một ly rượu thuốc trong bữa cơm. Lúc ở rừng, Hồ Chí Minh chủ trương tránh ăn no, không ngủ trưa và vận động nhiều. Buổi sáng thể dục, buổi chiều làm vườn, lúc cần thì đi vác củi cho đồng bào (…). Khi về Hà Nội, Chủ tịch nước có phòng làm việc, phòng tiếp khách, nhiều khi chủ tọa những bữa tiệc long trọng, nhưng bình thường ngày hai bữa, Chủ tịch nước cùng nhân viên đều ăn chung. Nhiều lần, vì đến quá trễ, thức ăn không còn gì, Hồ Chí Minh vẫn vui cười ăn đủ mấy bát cơm như thường lệ.
Bác Hồ kính yêu đã sống một cuộc đời thật thanh cao, giản dị, không màng danh lợi. Người sẵn sàng hy sinh tất cả để lo cho dân, cho nước; Người “nâng niu tất cả chỉ quên mình”. Người nói với Nhân dân của Người bằng cả trái tim và tấm lòng: “Từ trước đến nay tôi đã là người của đồng bào thì từ nay về sau, mãi mãi tôi vẫn thuộc về đồng bào”. Năm 1946, khi tham dự cuộc vận động “Mùa Đông binh sĩ”, Bác đã cởi ngay chiến áo len đang mặc để gửi cho chiến sĩ ngoài mặt trận. Bác còn dành cả tiền lương, nhuận bút, quần áo, khăn mặt để tặng các chiến sĩ, gia đình chính sách, các cụ già, em thơ và những người nghèo khổ...
Người đã hy sinh cả cuộc sống riêng tư, hy sinh tình nhà để lo việc nước được thể hiện qua bức điện gửi về quê khi nghe tin anh trai của Bác là ông Nguyễn Sinh Khiêm qua đời: “Nghe tin anh cả mất, lòng tôi buồn rầu, vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc anh ốm đau tôi không thể trông nom, lúc anh tạ thế tôi không thể lo liệu. Than ôi! Tôi chịu tội bất đệ trước linh hồn anh và xin bà con nguyện lượng cho một con người đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước”. Thật cảm động và tự hào biết bao về đức hy sinh to lớn của Bác Hồ kính yêu; “Ôi lòng Bác vậy, cứ thương ta/ Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa/ Chỉ biết quên mình, cho hết thảy/ Như dòng sông chảy, nặng phù sa” (Tố Hữu).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi về cõi vĩnh hằng nhưng Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta không chỉ là một sự nghiệp cách mạng vĩ đại, mà còn cả một di sản cao quý, đó là tấm gương sáng ngời về phẩm chất đạo đức cao đẹp, suốt đời hy sinh phấn đấu quên mình cho đất nước được độc lập, phồn vinh; cho Nhân dân được ấm no, tự do, hạnh phúc. Đức hy sinh và tình thương yêu của Bác là tấm gương sáng ngời tiếp tục soi sáng đạo đức, tâm hồn cho mỗi thế hệ người Việt Nam. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ là niềm vinh dự, tự hào mà còn là niềm tin và động lực để xây dựng đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, thực hiện thành công mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.
Sở dĩ Chủ tịch Hồ Chí Minh chấp nhận dấn thân vào thực tiễn đấu tranh để mưu cầu độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam và toàn nhân loại, bởi Người nhận thức rõ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do!”, cùng với hoài bão, ham muốn, ham muốn tột bậc của Người là làm sao cho nước nhà độc lập, dân ta được tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, được học hành tiến bộ, được chăm sóc sức khoẻ, được tự do đi lại, được hưởng quyền dân chủ, có đời sống ấm no hạnh phúc. Với lẽ sống “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” và đức hy sinh vì nước, vì dân, Người không ở ngôi dinh thự của Phủ toàn quyền Đông Dương được lấy làm Phủ Chủ tịch, mà chọn ngôi nhà sàn đơn sơ, chỉ có hai phòng nhỏ là nơi Người vừa ở vừa làm việc. Phương tiện sinh hoạt của một vị Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước chỉ là một chiếc giường đơn chiếu cói, một tủ quần áo, một chiếc máy thu thanh, một đôi dép cao su, hai bộ quần áo kaki… Bữa ăn hàng ngày hết sức dân dã thường chỉ có canh cua, tương, cà, dưa muối, cá kho với lá gừng… Thật là một sự giản dị hết sức vĩ đại. Thủ tướng Phạm Văn Đồng kể rằng, lúc ở chiến khu, Người sống chung với anh em trong một cơ quan, làm việc, học tập, ăn ở, sinh hoạt đều như anh em. Người thích đi bộ, tắm sông, hút thuốc lá và thỉnh thoảng uống một ly rượu thuốc trong bữa cơm. Lúc ở rừng, Hồ Chí Minh chủ trương tránh ăn no, không ngủ trưa và vận động nhiều. Buổi sáng thể dục, buổi chiều làm vườn, lúc cần thì đi vác củi cho đồng bào (…). Khi về Hà Nội, Chủ tịch nước có phòng làm việc, phòng tiếp khách, nhiều khi chủ tọa những bữa tiệc long trọng, nhưng bình thường ngày hai bữa, Chủ tịch nước cùng nhân viên đều ăn chung. Nhiều lần, vì đến quá trễ, thức ăn không còn gì, Hồ Chí Minh vẫn vui cười ăn đủ mấy bát cơm như thường lệ.
Bác Hồ kính yêu đã sống một cuộc đời thật thanh cao, giản dị, không màng danh lợi. Người sẵn sàng hy sinh tất cả để lo cho dân, cho nước; Người “nâng niu tất cả chỉ quên mình”. Người nói với Nhân dân của Người bằng cả trái tim và tấm lòng: “Từ trước đến nay tôi đã là người của đồng bào thì từ nay về sau, mãi mãi tôi vẫn thuộc về đồng bào”. Năm 1946, khi tham dự cuộc vận động “Mùa Đông binh sĩ”, Bác đã cởi ngay chiến áo len đang mặc để gửi cho chiến sĩ ngoài mặt trận. Bác còn dành cả tiền lương, nhuận bút, quần áo, khăn mặt để tặng các chiến sĩ, gia đình chính sách, các cụ già, em thơ và những người nghèo khổ...
Người đã hy sinh cả cuộc sống riêng tư, hy sinh tình nhà để lo việc nước được thể hiện qua bức điện gửi về quê khi nghe tin anh trai của Bác là ông Nguyễn Sinh Khiêm qua đời: “Nghe tin anh cả mất, lòng tôi buồn rầu, vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc anh ốm đau tôi không thể trông nom, lúc anh tạ thế tôi không thể lo liệu. Than ôi! Tôi chịu tội bất đệ trước linh hồn anh và xin bà con nguyện lượng cho một con người đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước”. Thật cảm động và tự hào biết bao về đức hy sinh to lớn của Bác Hồ kính yêu; “Ôi lòng Bác vậy, cứ thương ta/ Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa/ Chỉ biết quên mình, cho hết thảy/ Như dòng sông chảy, nặng phù sa” (Tố Hữu).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi về cõi vĩnh hằng nhưng Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta không chỉ là một sự nghiệp cách mạng vĩ đại, mà còn cả một di sản cao quý, đó là tấm gương sáng ngời về phẩm chất đạo đức cao đẹp, suốt đời hy sinh phấn đấu quên mình cho đất nước được độc lập, phồn vinh; cho Nhân dân được ấm no, tự do, hạnh phúc. Đức hy sinh và tình thương yêu của Bác là tấm gương sáng ngời tiếp tục soi sáng đạo đức, tâm hồn cho mỗi thế hệ người Việt Nam. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ là niềm vinh dự, tự hào mà còn là niềm tin và động lực để xây dựng đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, thực hiện thành công mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.