Ngay dòng đầu tiên trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam 2011 đã khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện”, để ghi nhận công lao to lớn, tại Đại hội II của Đảng Lao Động Việt Nam (02/1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu giữ chức Chủ tịch Đảng, với tư cách là lãnh tụ tối cao, người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể nói, Nguyễn Ái Quốc chính là “hạt nhân lịch sử” kết tinh ba yếu tố phong trào công nhân, phong trào yêu nước và chủ nghĩa Mác - Lênin dẫn đến sự ra đời tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Vai trò ấy không chỉ là sự chuẩn bị đầy đủ các yếu tố mà còn có tính quyết định đến sự kiện thành lập Đảng, đặt nền móng toàn diện cho việc xây dựng Đảng sau này.
Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện cốt yếu cho sự ra đời của chính đảng cộng sản ở Việt Nam.
Với tư duy và tầm nhìn vượt thời đại, xuất phát từ lòng yêu nước chân chính, ngày 05/6/1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước nhằm cứu dân tộc khỏi cảnh “lầm than nô lệ”. Khác với những vĩ nhân đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã tìm cho mình một lối đi riêng, xâm nhập từ thực tiễn. Người đã đến những nước tư bản lớn trên thế giới như Mỹ, Anh, Pháp…và nhận thấy rằng tư bản ở đâu cũng giống nhau, đằng sau ánh hào quang là sự đen tối; trên thế giới này chỉ có hai loại người là kẻ bóc lột và người bị bóc lột. Từ đó Người khẳng định cách mạng tư sản không đem lại điều mà Người ham muốn là độc lập dân tộc, tự do cho dân tộc và ấm no, hạnh phúc tự do cho nhân dân.
Tháng 11/1917, Cách mạng tháng Mười Nga thành công, nhân loại bước vào thời đại mới, mở ra cơ hội cho các dân tộc đang bị đô hộ giành lại nền độc lập. Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được Bản sơ thảo Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, sự bắt gặp của lý tưởng yêu nước với chất lý thời đại đã mở ra bước ngoặt lớn trong tư tưởng cứu nước của Người. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu trở thành người chiến sĩ cộng sản đầu tiên và bắt tay vào chuẩn bị các điều kiện cốt yếu để nhanh chóng thành lập một chính đảng cộng sản ở Việt Nam.
Trước hết, Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị về tư tưởng. Khi cách mạng tháng Mười Nga thành công tác động sâu sắc đến không khí chính trị thế giới, năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đã gia nhập Đảng Xã hội Pháp, chính đảng tiến bộ nhất lúc bấy giờ ở Pháp. Cũng năm đó, Người viết Bản Yêu sách của nhân dân An Nam, gửi tới Hội nghị Vecsxai, tố cáo những chính sách cai trị thâm độc của thực dân Pháp, đòi hỏi các quyền tự do, dân chủ và bình đảng cho dân tộc Việt Nam. Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Đảng Xã hội Pháp gia nhập Quốc tế III, thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng các nước thuộc địa thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sau đó sáng lập tờ báo “Le Paria” (Người cùng khổ). Người viết nhiều bài trên các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí cộng sản, Tập san Thư tín quốc tế…Chính những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc đã nâng cao chuyển biến về tư tưởng trong lực lượng yêu nước bây giờ, nhận thấy bản chất thực dân Pháp, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng dân tộc.
Song song với đó, xuất phát từ chiều sâu đặc điểm xã hội Việt Nam là một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, Nguyễn Ái Quốc tích cực nghiên cứu chủ nghĩa Mác- Lênin dưới góc độ phát triển và sáng tạo, dần hình thành một hệ thống luận điểm chính trị bước đầu, được hệ thống trong cuốn “Đường Kách mệnh”. Cuốn sách đã xác định những luận điểm về mục tiêu cách mạng, nhiệm vụ cách mạng, lực lượng cách mạng, đảng cách mạng…đã định hình “mô hình” cho đường lối chính trị của một cuộc cách mạng vô sản mang tính chất giải phóng dân tộc, giai cấp ở Việt Nam. Cuốn sách đã được Người đưa vào giảng dạy cho đội ngũ cán bộ tiền thân của Đảng ở Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, trong những năm 1925-1927 tại Quảng Châu – Trung Quốc đã “thổi một luồng gió mới” hình thành tư duy chính trị mới cho những người thanh niên yếu nước Việt Nam, đấu tranh giải phóng dân tộc theo lý tưởng mới, con đường mới – con đường cách mạng vô sản theo Chủ nghĩa Mác - Lê nin và Cách mạng tháng Mười Nga.
Đặc biệt, Nguyễn Ái Quốc đã dày công sáng lập và xây dựng những tổ chức tiền thân chuẩn bị cho sự nảy nở trong thực tiễn những chi bộ cộng sản đầu tiên của Đảng. Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc), tháng 02/1925, Người thành lập nhóm Cộng sản đoàn, 4 tháng sau ( 6/1925), Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên mà nòng cốt là nhóm Cộng sản đoàn trước đó. Hội đã công bố chương trình, điều lệ, xây dựng hệ thống tổ chức. Để xây dựng và phát triển Hội về mọi mặt, Người đã cử cán bộ đi học ở Trường Đại học Cộng sản phương Đông (Liên Xô), Trường Quân chính Hoàng Phố (Trung Quốc), xuất bản tờ báo Thanh niên, thực hiện phong trào “vô sản hóa” đưa cán bộ đã được đào tạo về nước hoạt động nhằm xây dựng cơ sở của Hội, vừa rèn luyện Hội viên và tập hợp quần chúng.
Nguyễn Ái Quốc trực tiếp sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đặt nền móng toàn diện cho việc xây dựng Đảng sau này.
Những hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tác động sâu sắc, phong trào trào cách mạng Việt Nam chuyển biến nhanh chóng. Từ đầu 1929 đến đầu 1930, có ba tổ chức cộng sản đã ra đời ở Việt Nam trên cả ba miền. Tuy nhiên, ba tổ chức cộng sản đã có biểu hiện phân tán về lực lượng, bài xích lẫn nhau, thiếu thống nhất về tổ chức. Trước tình hình đó, với tinh thần chủ động, sáng tạo, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời giải quyết yêu cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam là thành lập một đảng cộng sản. Ngày 23/12/1929, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm về Trung Quốc, với tư cách là phái viên Quốc tế Cộng sản- Người triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng để thành lập Đảng, thời gian diễn ra từ ngày 06/01 đến 08/02/1930. Việc triệu tập Hội nghị hoàn toàn là sáng kiến của Người, trong thời gian chỉ đạo Người chưa nhận được nghị quyết của Quốc tế cộng sản về việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, bởi nghị quyết tới ngày 28/11/1929, mới được Quốc tế Cộng sản thông qua và khi về đến trong nước thì việc hợp nhất đã thành công. Sau khi chủ trì hoàn thành, Người có gửi bản Báo cáo tới Quốc tế cộng sản ngày 18/02/1930 về sự chủ trì của Người đối với sự kiện thành lập Đảng.
Đồng thời, Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành phương pháp hợp nhất các tổ chức cộng sản một cách đúng đắn, phù hợp. Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản chủ trương cần giải thể các tổ chức rồi lựa chọn các cá nhân ưu tú vào thành lập Đảng. Tuy nhiên, Nguyễn Ái Quốc không làm vậy, bởi vì những tổ chức cộng sản đều chung bản chất, chung mục tiêu, chung con đường cách mạng, điều khác chỉ là cách thống nhất và tổ chức nào đóng vai trò chủ thể. Nhận thức được điều đó, Nguyễn Ái Quốc đã chuyển toàn bộ lực lượng và thành lập chính Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là phương pháp tập hợp nhằm tăng cường khối đoàn kết, sức mạnh trong đảng, phù hợp thực tiễn lúc bấy giờ.
Đặc biệt, Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra Cương lĩnh cách mạng, định hướng cho cách mạng Việt Nam đi từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Với sự chủ trì của Người, Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do Người soạn thảo, xác định “lộ trình” với những luận điểm súc tích cho cách mạng Việt Nam về đường hướng chiến lược, về nhiệm vụ, về lực lượng, về đảng chính trị…Cương lĩnh xác định lực lượng cách mạng biện chứng, khoa học đề cao cao sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện cuộc cách mạng triệt để từ giải phóng dân tộc, giai cấp tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, cách mạng đấu tranh không chỉ vì lợi ích dân tộc Việt Nam mà còn vì sự phát triển của thế giới…Nghị quyết về Đông Dương của Quốc tế Cộng sản chỉ cho rằng chỉ có giai cấp công nhân và nông dân là lực lượng, đồng lực của cách mạng, các bộ phận giai cấp còn lại đều mang tính cải lương, thỏa hiệp. Tuy nhiên, với góc nhìn sát về thực tiễn cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã sáng tạo trong xác định lực lượng khi cho rằng không chỉ có hai giai cấp công nhân và nông dân mà đối với cách mạng Việt Nam còn có cả tư sản dân tộc, tiểu tư sản... Những giá trị của Cương lĩnh đặt nền móng cho quá trình hoạch định đường lối và chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hơn 90 năm qua.
Một mùa xuân mới nữa lại đến - Xuân Quý Mão 2023, trong bối cảnh đầy khó khăn thách thức. Nhớ về mùa xuân lịch sử Canh Ngọ năm 1930 - với sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam trong bối cảnh đất nước đang bị xâm lược, với tinh thần sáng tạo, chủ động, Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam- mở đường cho đất nước có được “cơ đồ, tiềm lực, vị thế như ngày hôm nay”.
Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo, chèo lái con thuyền Cách mạng từ sơ khai đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam phải trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử cũng không tránh khởi những yếu kém, sai lầm, khuyến điểm, nhưng Đảng đã đề ra những biện pháp sửa chữa đúng đắn, kịp thời và công khai phê bình, nhận khuyết điểm trước nhân dân; Quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy Đảng vẫn được nhân dân tin cậy, thừa nhận Đảng là đội tiên phong Chính trị, người lãnh đạo chân chính duy nhất của cả dân tộc. Ở nước ta, ngoài Đảng Cộng sản không lực lượng nào có thể lãnh đạo được Cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã cùng nhân dân viết nên những trang sử chói lọi; trong đó mỗi kỳ đại hội Đảng, mỗi thời đại của cách mạng Việt Nam là một dấu son không thể phai mờ trong lịch sử dân tộc.
Phát huy tinh thần ấy, tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với tư duy chiến lược toàn diện được đề ra tại Đại hội XIII, nhân kỷ niệm 93 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam kiên cường, trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo Nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên những kỳ tích vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đóng góp xứng đáng vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Tự hào về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Việt Nam càng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, tiếp tục lãnh đạo Nhân dân ta đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.