Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất của Đảng”.
Trong mọi giai đoạn cách mạng, tự phê bình và phê bình là việc làm không thể thiếu trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Tự phê bình và phê bình giúp cho cán bộ, đảng viên thấy được những ưu, khuyết điểm của mình, tìm ra các phương pháp, cách thức để khắc phục.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tự phê bình là gì? Là thật thà nhận, công khai nhận trước mặt mọi người những khuyết điểm của mình để tìm cách sửa chữa”. Khi “phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm”, phải tôn trọng thực tế khách quan, không vội vàng quy kết cho đồng chí mình. Phê bình như chữa bệnh cứu người, cho nên phải chân thành, phải thân ái, trên tình đồng chí.
Để sử dụng vũ khí tự phê bình và phê bình trong Đảng một cách có hiệu quả theo Hồ Chí Minh trước hết phải nhận thức đúng vấn đề. Theo Người: “Nhân vô thập toàn” nghĩa là con người thì ai cũng khó tránh khỏi sai lầm khuyết điểm; càng đảm nhiệm nhiều công việc thì càng dễ có sai lầm khuyết điểm nhiều hơn. Điều quan trọng là ở chỗ có có dám tìm ra khuyết điểm để sửa chữa hay không. Theo Người: “Một Đảng mà dấu diếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. Thế nhưng vì là một vấn đề khó nên tiến hành tự phê bình và phê bình cần nắm vững những nguyên tắc cơ bản, thể hiện tính Đảng, tính giáo dục, tính khách quan trung thực, thẳng thắn, dân chủ, đồng bộ sau đây:
Một là, tự phê bình và phê bình phải nhằm mục đích để giúp nhau tiến bộ nên động cơ phải trong sáng, dựa trên “tình đồng chí thương yêu nhau”; không vì phê bình mà công kích áp đặt khuyết điểm cho nhau. Khi phê bình người khác không được xoi mói “bới lông, tìm vết” để tìm cơ hội “hạ bệ’ lẫn nhau; “tránh công kích cá nhân, cãi bướng, trả thù, tiểu khí” , phải "chú trọng nhìn việc chứ không nhìn người" , khi phê bình đồng chí, đồng đội thì phải "vừa có lý, vừa có tình" , quan trọng nhất là phải chỉ rõ ra được nguyên nhân, khuyết điểm và biện pháp khắc phục. Thực hành tự phê bình và phê bình phải dân chủ, không mệnh lệnh, áp đặt, duy ý chí chủ quan, không đặt nặng vấn đề cảm tính.
Hai là, tự phê bình và phê bình phải có thái độ kiên quyết không khoan nhượng. Hồ Chí Minh cho rằng: “Tự phê bình và sữa chữa có khi dễ, nhưng có khi cũng khó khăn, đau đớn vì tự ái, vì thói quen, hoặc vì nguyên nhân khác. Đó là một cuộc đấu tranh”. Vì thế thực hiện tự phê bình và phê bình phải “Ráo riết, triệt để”, đúng mức, thật thà không nể nang, không thêm bớt. Thực hành tự phê bình và phê bình mà làm hời hợt, quanh co, chiếu lệ sai đúng không rõ ràng sẽ tạo môi trường cho khuyết điểm tồn tại và phát triển nặng thêm. Bởi vậy phải có thái độ khen chê đúng mức thì mới giúp cho người có khuyết điểm sữa chữa; đồng thời có ý nghĩa giúp người khác thấy đó mà đề phòng, tránh gặp khuyết điểm tương tự. Khuyết điểm sớm được sữa chữa sẽ dễ hơn khi để trở thành căn bệnh trầm kha. Vì Người cho rằng: “Người mắc khuyết điểm hôm nay, ngày mai chưa chắc đã mắc khuyết điểm. Người hôm nay chưa mắc khuyết điểm chưa chắc ngày mai cũng không mắc khuyết điểm”.
Ba là, tự phê bình và phê bình muốn có hiệu quả tốt cần có phương pháp tốt. Tự phê bình và phê bình phải “biết cách phê bình sáng suốt, khôn khéo, như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của mình, để tự mình sữa chữa”. Tự phê bình và phê bình phải được tiến hành trong tổ chức, chứ không phải gặp đâu nói đó. Người đứng đầu phải rất công minh, tạo được chỗ dựa tin cậy, khơi dậy được không khí dân chủ, thẳng thắn để ai cũng có thể nói rõ chính kiến của mình, phải tạo điều kiện tốt nhất để những người cần lấy ý kiến phê bình đồng chí mình có thời gian nghiên cứu nguyên nhân, hậu quả, mức độ, tác hại của sự việc của người bị phê bình. Tránh tạo cảm giác "thậm thà, thậm thụt” , "việc quá bất ngờ" , “việc bé xé ra to” trong dư luận trước và sau khi tổ chức cuộc họp phê bình và tự phê bình, đây là nguyên nhân chính của sự mất đoàn kết.
Bốn là, tự phê bình và phê bình phải có thái độ chân tình cầu thị, nói đúng ưu điểm và khuyết điểm, phê bình phải đúng lúc, kịp thời; phải biết lắng nghe và chờ đợi đồng chí tiếp thu để tránh việc làm cho người bị phê bình cảm thấy “nản chí, oán ghét”. Vì làm như vậy theo Chủ tịch Hồ Chí Minh chẳng khác “bánh ngọt là một thứ ngon lành, nhưng đem bánh ngọt bắt người ta ăn, nhét vào miệng người ta thì ai cũng chán”.
Nội dung tự phê bình và phê bình trong Đảng bao gồm toàn bộ các mặt hoạt động của Đảng và của mọi cán bộ, đảng viên. Trong giai đoạn hiện nay, việc thực hiện tự phê bình và phê bình cần gắn chặt với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Tự phê bình và phê bình trong Đảng gồm của cấp trên đối với cấp dưới, cấp dưới đối với cấp trên và cùng cấp. Tự phê bình và phê bình được thể hiện qua các hình thức như: sinh hoạt chi bộ định kỳ; hội nghị chi bộ, đảng bộ thường kỳ; đại hội đảng các cấp; các đợt sinh hoạt chính trị tập trung; các báo cáo định kỳ và đột xuất của các tổ chức đảng.
Phương pháp tự phê bình và phê bình phải cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo và khéo léo về cách thức tiến hành, phải thể hiện rõ những tính chất cơ bản của tự phê bình và phê bình của Đảng mới có hiệu quả. Đối với tự phê bình và phê bình, không nên dùng phương pháp hành chính mệnh lệnh.
Tự phê bình và phê bình nhằm mục đích giúp nhau cùng tiến bộ, nên động cơ phải đúng đắn, trong sáng, dựa trên “tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Khi phê bình người khác không được áp đặt, xoi mói mang tính “bới lông, tìm vết”, “hạ bệ” lẫn nhau; phê bình việc chứ không phê bình người, tránh công kích cá nhân, trả thù. Thực hành tự phê bình và phê bình phải dân chủ, không mệnh lệnh, áp đặt.
Trong quá trình cách mạng, không phải Đảng Cộng sản Việt Nam không mắc phải những sai lầm, khuyết điểm. Tuy nhiên, Đảng đã luôn nhận ra và dũng cảm đối mặt với những sai lầm ấy.
Trong quá trình đổi mới đất nước, Đại hội VI của Đảng mở đầu cho một thời kỳ nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật. Đảng ta đã nghiêm túc tự phê bình những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế - xã hội và những khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng.
Trong hoạt động của các tổ chức đảng, tự phê bình và phê bình đã được coi trọng, duy trì đều đặn, thực hiện nghiêm túc. Quy định về tự phê bình và phê bình đã được quy định là một trong những nội dung chính của sinh hoạt Đảng.