Trong hoạt động điều tra việc thu giữ thư tín, điện tín có vai trò quan trọng trong việc củng cố chứng cứ để xử lý đối với tội phạm. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện còn gặp khó khăn trong xử lý vụ việc. Tình huống xảy ra trên thực tiễn công tác như sau:
A là người ghi số lô, số đề được thua bằng tiền đối với những người chơi khác. Ngày 15/01/2022, B nhắn tin bằng số điện thoại di động của B đến số điện thoại di động của A ghi bao lô nhiều con số đài miền Nam, tổng cộng B phải trả cho A là 4.600.000 đồng, kết quả xổ số cùng ngày xác định B trúng thưởng được 16.000.000 đồng, trong lúc A đang tổng hợp các con số và số tiền vào sổ thì bị phát hiện bắt giữ, thu giữ 1 điện thoại di động của A và 1 cuốn sổ có ghi số lô, số đề. Tiếp tục thu giữ của B 01 điện thoại di động.
Cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra điện thoại đã thu giữ xác định: Trên điện thoại của A tại thời điểm 15 giờ 00 phút ngày 15/01/2022 có tin nhắn của B nhắn đến A với nội dung ghi số đề như đã nêu trên. Trên điện thoại của B đã xóa tin nhắn nên không còn dữ liệu tin nhắn. Tiến hành lấy lời khai của cả A và B đều thừa nhận hành vi đánh bạc như đã nêu trên.
Cơ quan điều tra có công văn yêu cầu tra cứu thông tin lịch sử tin nhắn, số cuộc gọi đi, gọi đến của số thuê bao A và B đang sử dụng, tuy nhiên tại văn bản trả lời của Công ty viễn thông lại xác định không còn dữ liệu tin nhắn liên lạc giữa số điện thoại của A với B.
Các vấn đề đặt ra:
Thứ nhất:Việc giữa hai số điện thoại của A và B có liên lạc nhắn tin cho nhau tại thời điểm 15 giờ 00 ngày 15/01/2022 là căn cứ quan trọng để xử lý đối với A và B về hành vi đánh bạc. Tuy nhiên với việc trả lời của Công ty viễn thông nêu trên đã gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, bỏ lọt tội phạm.
Thứ hai: Theo quy định tại điểm c, khoản 4, Điều 6 Luật Viễn thông năm 2009 quy định:
“Điều 6. Bảo đảm bí mật thông tin:
4. Doanh nghiệp viễn thông không được tiết lộ thông tin riêng liên quan đến người sử dụng dịch vụ viễn thông, bao gồm tên, địa chỉ, số máy gọi, số máy được gọi, vị trí máy gọi, vị trí máy được gọi, thời gian gọi và thông tin riêng khác mà người sử dụng đã cung cấp khi giao kết hợp đồng với doanh nghiệp, trừ các trường hợp sau đây:
c) Khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 197 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Khi cần thiết phải thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại cơ quan, tổ chức bưu chính, viễn thông thì cơ qua điều tra ra lệnh thu giữ. Lệnh này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.”
Với các quy định nêu trên nhận thấy, nghĩa vụ cung cấp thông tin của nhà mạng để phục vụ quá trình điều tra là bắt buộc, nhưng vì không có quy định về thời hạn lưu trữ thông tin cụ thể chi tiết, nên nhà mạng từ chối việc cung cấp thông tin phục vụ quá trình điều tra.
Thứ ba:Trong trường hợp không có thông tin lưu trữ về các số điện thoại của A và B đã thực hiện nhắn tin nêu trên, thì việc xử lý A và B như thế nào. Trong trường hợp này cũng có nhiều quan điểm khác nhau, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất: Xử lý cả A và B về tội Đánh bạc, vì quá trình điều tra đã thu giữ được điện thoại của A, bản thân A và B đều thừa nhận hành vi đánh bạc phù hợp với tin nhắn, sổ sách đã thu giữ, nên đủ căn cứ khởi tố A và B về tội đánh bạc.
Quan điểm thứ 2: Đủ căn cứ xử lý A về tội đánh bạc, không đủ căn cứ để khởi tố bị can đối với B, vì hành vi của A thì đã rõ, nhưng đối với hành vi của B thì chưa đủ căn cứ để khởi tố vì không thu giữ được tin nhắn trên máy điện thoại của B, không thu giữ lịch sử liên lạc tin nhắn giữa điện thoại của A và B nên không có căn cứ vững chắc để khởi tố đối với B. Vấn đề đặt ra trong quan điểm này là sự mâu thuẫn trong việc xử lý hình sự đối với cả A và B trong cùng một vấn đề; một mặt khi xử lý A thì xác định có căn cứ A có hành vi đánh bạc với B, nhưng khi xem xét xử lý đối với B thì lại xác định là không đủ căn cứ B đánh bạc với A.
Quan điểm thứ 3: Nếu không đủ căn cứ xử lý B thì cũng không đủ căn cứ để xử lý A về hành vi đánh bạc. Quan điểm này xác định tính liên quan giữa A và B trong việc thực hiện tội phạm, cả A và B là đồng phạm cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội.
Từ những phân tích nêu trên, người viết đồng tình với quan điểm thứ 3 nếu không đủ căn cứ để xử lý B về hành vi đánh bạc thì cũng không đủ căn cứ để xử lý A, vì trong tình huống này cả A và B đã thống nhất ý chí thực hiện hành vi đánh bạc. Nếu chỉ xử lý A thì không xác định được A đã đánh bạc với ai.
Tôi mong nhận được ý kiến tham gia đóng góp của đồng nghiệp./.