1. Về các trường hợp bắt buộc giám định và thời hạn giám định.
Điều 206 BLTTHS năm 2015 quy định các trường hợp bắt buộc giám định gồm:
1.1. Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án;
1.2. Tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và không có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó;
1.3. Nguyên nhân chết người;
1.4. Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động;
1.5. Chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ;
1.6. Mức độ ô nhiễm môi trường.
Khác với BLTTHS 2003, BLTTHS 2015 đã quy định thời hạn tiến hành giám định. Cụ thể, Điều 208 quy định:
- Thời hạn giám định quy định tại khoản 1 Điều 206: không quá 03 tháng.
- Khoản 3, 6: không quá 01 tháng.
- Khoản 2, 4, 5: không quá 09 ngày.
Đồng thời quy định một số trường hợp khác (không phải các trường hợp bắt buộc phải giám định kể trên) thì thời hạn giám định được ghi trong quyết định trưng cầu giám định.
Quy định này nhằm đảm bảo các quyết định trưng cầu giám định dù có thuộc trường hợp bắt buộc hay không bắt buộc trưng cầu giám định đều phải có thời hạn giám định.
Tuy nhiên, thời hạn không bắt buộc trưng cầu giám định do người yêu cầu giám định và cá nhân, tổ chức thực hiện giám định thỏa thuận (Điều 22 Luật giám định tư pháp năm 2012). Vấn đề đặt ra, vậy thời hạn thỏa thuận nêu trên có thể dài hơn 03 tháng so với thời hạn của trường hợp phải bắt buộc giám định không?
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 chỉ quy định trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra kết luận giám định, tổ chức, cá nhân đã tiến hành giám định phải gửi kết luận giám định cho cơ quan đã trưng cầu, người yêu cầu giám định (Điều 213 BLTTHS). Không giới hạn thời hạn tối đa của thời điểm phải kết thúc giám định (phải ra kết luận giám định) đối với trường hợp không bắt buộc trưng cầu giám định, và như vậy vì nhiều lí do khác nhau mà việc giám định bị kéo dài thì điều này sẽ gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vụ án.
Hoặc đối với các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thì trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết định: Quyết định khởi tố vụ án hình sự; Quyết định không khởi tố vụ án hình sự; Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Trường hợp vụ việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn giải quyết tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố có thể kéo dài nhưng không quá 02 tháng. Trường hợp chưa thể kết thúc việc kiểm tra, xác minh trong thời hạn quy định tại khoản này thì Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền có thể gia hạn một lần nhưng không quá 02 tháng.
Do đó, nếu việc giám định bị kéo dài và không quy định thời hạn kết thúc việc giám định sẽ dẫn đến có nhiều vụ việc bị tạm đình chỉ do không quy định thời hạn phải kết thúc giám định như đã nói trên. Bởi căn cứ tạm đình chỉ điều tra vụ án, tạm đình chỉ điều tra vụ án đối với bị can, tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường hợp chưa có kết quả giám định không phân biệt giới hạn phạm vi của giám định đó có bắt buộc hay không bắt buộc giám định.
Bên cạnh đó, Bộ luật này vẫn chưa được hướng dẫn cụ thể, trường hợp nào được chấp nhận và trường hợp nào không được chấp nhận giám định. Điều 11 Luật giám định tư pháp năm 2012 quy định Giám định viên tư pháp có quyền từ chối giám định trong trường hợp nội dung cần giám định vượt quá khả năng chuyên môn; đối tượng giám định, các tài liệu liên quan được cung cấp không đủ hoặc không có giá trị để kết luận giám định; thời gian không đủ để thực hiện giám định hoặc có lý do chính đáng khác. Song, đây vẫn không phải là các điều kiện, các trường hợp được giám định hay không được giám định.
2. Về trình tự, thủ tục giám định.
Giám định bổ sung.
Khoản 2 Điều 210 BLTTHS 2015 quy định việc giám định bổ sung có thể do tổ chức, cá nhân đã giám định hoặc tổ chức, cá nhân khác thực hiện. Điều này phù hợp với Điều 28 Luật giám định tư pháp năm 2012 về việc ngoài tổ chức thì cá nhân vẫn có quyền giám định.
Giám định lại.
Việc giám định lại được thực hiện khi có nghi ngờ kết luận giám định lần đầu không chính xác. Việc giám định lại phải do người giám định khác thực hiện.
Giám định trong trường hợp có mâu thuẫn giữa hai kết quả trên.
Khoản 3 Điều 211 BLTTHS 2015 quy định, trường hợp có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì việc giám định lại lần thứ hai do người trưng cầu giám định quyết định. Việc giám định lại lần thứ hai phải do Hội đồng giám định thực hiện theo quy định của Luật giám định tư pháp.
Hội đồng giám định gồm Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quản lý về lĩnh vực cần giám định quyết định thành lập Hội đồng để thực hiện giám định lại lần thứ hai. Hội đồng giám định gồm có ít nhất 03 thành viên là những người có chuyên môn cao và có uy tín trong lĩnh vực cần giám định (Điều 30 Luật giám định tư pháp năm 2012).
Giám định lại trong trường hợp đặc biệt
Trường hợp đặc biệt, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc giám định lại sau khi đã có kết luận của Hội đồng giám định. Việc giám định lại trong trường hợp đặc biệt phải do Hội đồng mới thực hiện, những người đã tham gia giám định trước đó không được giám định lại. Kết luận giám định lại trong trường hợp này được sử dụng để giải quyết vụ án (Điều 212 BLTTHS 2015).
Như thế, trong các trường hợp giám định kể trên, giám định lại quy định tại Điều 211 và giám định lại trong trường hợp đặc biệt quy định tại Điều 212 thì những người tham gia giám định trước đó không được tham gia giám định lại.
Trong trường hợp có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định (quy định tại Khoản 3 Điều 211) thì những người tham gia giám định lại lần này do Hội đồng giám định quyết định thành lập Hội đồng để thực hiện giám định lại lần thứ hai.
Như vậy, thành phần những người tham gia giám định do Hội đồng giám định quyết định và có quyền quyết định mời ai tham gia, đồng thời phải có ít nhất 03 thành viên là những người có chuyên môn cao, uy tín trong lĩnh vực cần giám định, thế thì có bắt buộc Hội đồng này không được mời những người đã giám định trước đó vào tham gia giám định tại Hội đồng giám định lại lần thứ hai này không.
Những vấn đề trên cần phải tiếp tục được hoàn thiện để các kết quả do tổ chức giám định tư pháp, người giám định tư pháp cung cấp là chứng cứ quan trọng, cần thiết phục vụ cho việc giải quyết các vụ việc, vụ án hình sự được kịp thời, nhanh chóng./.