Bên cạnh Bộ luật Dân sự quy định nguyên tắc tôn trọng quyền định đoạt của các bên trong quan hệ dân sự, Luật thi hành án dân sự, được sửa đổi bổ sung năm 2014 cũng quy định về “Thỏa thuận thi hành án” (Điều 6), “Quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án” (Điều 7) và “Quyền, nghĩa vụ của người phải thi hành án” (Điều 7a), trong đó có quyền thỏa thuận giữa người được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Cụ thể:
Điều 6. Thỏa thuận thi hành án, quy định
“1.Đương sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án, nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức, xã hội. Kết quả thi hành theo thỏa thuận được công nhận.
Theo yêu cầu của đương sự, Chấp hành viên có trách nhiệm chứng kiến việc thỏa thuận về thi hành án.
2. Trường hợp đương sự không thực hiện đúng thỏa thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết định”.
Điều 7. Quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, quy định
“1. Người được thi hành án có các quyền sau đây:
a) Yêu cầu thi hành án, đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định, áp dụng biện pháp bảo đảm, áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án được quy định trong Luật này;
b) Được thông báo về thi hành án;
c) Thỏa thuận với người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, phương thức, nội dung thi hành án;
d) Yêu cầu Tòa án xác định, phân chia quyền sở hữu, sử dụng tài sản; yêu cầu Tòa án giải thích những điểm chưa rõ, đính chính lỗi chính tả hoặc số liệu sai sót; khởi kiện dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có tranh chấp về tài sản liên quan đến thi hành án;
đ) Tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh, cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án;
e) Không phải chịu chi phí xác minh điều kiện thi hành án do Chấp hành viên thực hiện;
g) Yêu cầu thay đổi Chấp hành viên trong trường hợp có căn cứ cho rằng Chấp hành viên không vô tư khi làm nhiệm vụ;
h) Ủy quyền cho người khác thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình;
i) Chuyển giao quyền được thi hành án cho người khác;
k) Được miễn, giảm phí thi hành án trong trường hợp cung cấp thông tin chính xác về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án và trường hợp khác theo quy định của Chính phủ;
l) Khiếu nại, tố cáo về thi hành án.
2. Người được thi hành án có các nghĩa vụ sau đây:
a) Chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định;
b) Thực hiện các quyết định, yêu cầu của Chấp hành viên trong thi hành án; thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự khi có thay đổi về địa chỉ, nơi cư trú;
c) Chịu phí, chi phí thi hành án theo quy định của Luật này.”
Điều 7a. Quyền, nghĩa vụ của người phải thi hành án, quy định
“1. Người phải thi hành án có các quyền sau đây:
a) Tự nguyện thi hành án; thỏa thuận với người được thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, phương thức, nội dung thi hành án; tự nguyện giao tài sản để thi hành án;
b) Tự mình hoặc ủy quyền cho người khác yêu cầu thi hành án theo quy định của Luật này;
c) Được thông báo về thi hành án;
d) Yêu cầu Tòa án xác định, phân chia quyền sở hữu, sử dụng tài sản; yêu cầu Tòa án giải thích những điểm chưa rõ, đính chính lỗi chính tả hoặc số liệu sai sót; khởi kiện dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có tranh chấp về tài sản liên quan đến thi hành án;
đ) Chuyển giao nghĩa vụ thi hành án cho người khác theo quy định của Luật này;
e) Yêu cầu thay đổi Chấp hành viên trong trường hợp có căn cứ cho rằng Chấp hành viên không vô tư khi làm nhiệm vụ;
g) Được xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án; được xét miễn, giảm một phần hoặc toàn bộ chi phí cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật này;
h) Khiếu nại, tố cáo về thi hành án.
2. Người phải thi hành án có các nghĩa vụ sau đây:
a) Thi hành đầy đủ, kịp thời bản án, quyết định;
b) Kê khai trung thực tài sản, điều kiện thi hành án; cung cấp đầy đủ tài liệu, giấy tờ có liên quan đến tài sản của mình khi có yêu cầu của người có thẩm quyền và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung kê khai đó;
c) Thực hiện các quyết định, yêu cầu của Chấp hành viên trong thi hành án; thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự khi có thay đổi về địa chỉ, nơi cư trú;
d) Chịu chi phí thi hành án theo quy định của Luật này.”
Để đảm bảo thi hành các điều luật này, Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, ngày 18/07/2015, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, cụ thể.
“Điều 5. Thỏa thuận thi hành án, quy định
1. Trường hợp đương sự thỏa thuận trước khi yêu cầu thi hành án hoặc đã yêu cầu nhưng cơ quan thi hành án dân sự chưa ra quyết định thi hành án thì thỏa thuận đó phải lập thành văn bản nêu rõ thời gian, địa điểm, nội dung thỏa thuận, có chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên tham gia thỏa thuận. Đương sự có nghĩa vụ tự thực hiện đúng nội dung đã thỏa thuận.
Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận mà thời hiệu yêu cầu thi hành án vẫn còn thì bên có quyền được yêu cầu thi hành án đối với phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết định.
2. Trường hợp cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định thi hành án, đương sự vẫn có quyền tự thỏa thuận. Thỏa thuận phải thể hiện rõ thời gian, địa điểm, nội dung thỏa thuận, thời hạn thực hiện thỏa thuận, hậu quả pháp lý đối với việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nội dung đã thỏa thuận, có chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên tham gia.
Trường hợp các bên không tự nguyện thực hiện theo đúng nội dung đã thỏa thuận thì cơ quan thi hành án dân sự căn cứ nội dung quyết định thi hành án và kết quả đã thi hành theo thỏa thuận, đề nghị của đương sự để tổ chức thi hành, trừ trường hợp quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự.
3. Trường hợp cơ quan thi hành án dân sự đang tổ chức thi hành án mà đương sự thỏa thuận về việc không yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành một phần hoặc toàn bộ quyết định thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định đình chỉ thi hành án đối với nội dung thỏa thuận không yêu cầu thi hành theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự, trừ trường hợp thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, không đúng với thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án.
Trường hợp thỏa thuận nêu trên được thực hiện sau khi tài sản đã được bán hoặc giao cho người khác nhận để thi hành án thì phải được sự đồng ý của người mua được tài sản hoặc người nhận tài sản để thi hành án.
4. Khi đương sự có yêu cầu, Chấp hành viên có trách nhiệm chứng kiến và ký tên vào văn bản thỏa thuận trong trường hợp quy định tại Khoản 2, Khoản 3 của Điều này. Trường hợp thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, không đúng với thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án thì Chấp hành viên có quyền từ chối nhưng phải lập biên bản và nêu rõ lý do.
Người yêu cầu Chấp hành viên chứng kiến việc thỏa thuận ngoài trụ sở cơ quan thi hành án dân sự mà phát sinh chi phí thì phải thanh toán các chi phí hợp lý cho cơ quan thi hành án dân sự.”
Như vậy, với các quy phạm pháp luật nêu trên, thì đương sự có quyền thỏa thuận trước khi yêu cầu thi hành án hoặc đã yêu cầu nhưng cơ quan thi hành án dân sự chưa ra quyết định thi hành án hoặc cơ quan thi hành án dân sự đang tổ chức thi hành án. Trường hợp thỏa thuận về việc không yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành một phần hoặc toàn bộ quyết định thi hành án được thực hiện sau khi tài sản đã được bán hoặc giao cho người khác nhận để thi hành án thì phải được sự đồng ý của người mua được tài sản hoặc người nhận tài sản để thi hành án.
Bên cạnh quy định về quyền, các quy phạm pháp luật nêu trên cũng quy định nghĩa vụ đương sự về cung cấp tài liệu và thông báo cho cơ quan thi hành án, đó là: Đương sự cung cấp đầy đủ tài liệu, giấy tờ có liên quan đến tài sản của mình khi có yêu cầu của người có thẩm quyền; thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự khi có thay đổi về địa chỉ, nơi cư trú.
Về trách nhiệm của Chấp hành viên, thì Chấp hành viên có trách nhiệm chứng kiến việc thỏa thuận về thi hành án khi đương sự có yêu cầu, nghĩa là Chấp hành viên không phải chứng kiến mọi trường hợp đương sự thỏa thuận về thi hành án.
Một giả thiết đặt ra là: Trường hợp cơ quan Thi hành án dân sự đang tổ chức thi hành án, thì các đương sự đã tự thỏa thuận thực hiện xong nghĩa vụ thi hành án trước khi bán đấu giá tài sản chỉ vài ngày, nhưng không cung cấp tài liệu về thỏa thuận và không thông báo cho cơ quan thi hành án hoặc Chấp hành viên biết việc thỏa thuận đó để ngưng việc bán đấu giá. Sau khi nhận được thông báo về việc giao tài sản cho người mua trúng đấu giá, thì người phải thi hành án và người được thi hành án cung cấp biên nhận giao trả tiền và tự thỏa thuận về thi hành án, người được thi hành án đã đồng ý xóa toàn bộ số nợ phải thi hành án còn lại và yêu cầu đình chỉ thi hành án (rút đơn thi hành án).
Vấn đề vướng mắc, khó khăn là mặc dù đã nhiều lần giải quyết việc thi hành án, động viên, thuyết phục nhưng người mua tài sản đấu giá vẫn đòi được giao tài sản, còn người phải thi hành án cương quyết không đồng ý giao tài sản. Vậy, trong trường hợp này có giao tài sản cho người mua trúng đấu giá được hay không?
Bởi lẽ, nếu không giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá sẽ vi phạm Điều 103 Luật thi hành án dân sự, được sửa đổi bổ sung năm 2014, quy định bảo vệ quyền của người mua tài sản bán đấu giá, vì người mua được tài sản bán đấu giá thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, họ không có lỗi.
Còn nếu giao tài sản người mua được tài sản bán đấu giá thì sự việc phức tạp hơn, vì việc thi hành án đã xong, người phải thi hành án không còn phải thi hành nghĩa vụ nào và do pháp luật không quy định bắt buộc đương sự phải thông báo cho Chấp hành viên, cơ quan thi hành án mọi thỏa thuận về thi hành án.
Với mục đích nhằm đảm bảo đạt tình, đạt lý trong giải quyết vụ việc, người viết xin đưa ra quan điểm cá nhân về hướng giải quyết để tham khảo là: Trong trường hợp này, Chấp hành viên nên khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hủy kết quả bán đấu giá do lỗi của các đương sự không báo cho Chấp hành viên biết việc tự thỏa thuận thi hành án.