Quyền bào chữa là quyền hiến định, là một trong những quyền tự do dân chủ trọng yếu của công dân, đồng thời cũng là một chế định trọng yếu trong tố tụng, giúp công tác xét xử tiến hành toàn diện và khách quan, chính xác, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bảo vệ pháp luật. Chính vì vậy Bộ luật TTHS năm 2015 đã mở rộng diện người được đảm bảo quyền bào chữa là “Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt” quy định tại điểm g - khoản 1 - Điều 58.
Trước đây, Bộ luật TTHS năm 2003 có quy định về người bào chữa nhưng chưa đưa ra khái niệm cụ thể về người bào chữa thì Bộ luật TTHS năm 2015 đã nêu lên khái niệm cụ thể tại khoản 1 - Điều 72 như sau: “Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa”
Đồng thời tại khoản 2 - Điều 72 cũng bổ sung diện người được tham gia bào chữa là “Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý”.
Khoản 3, 4 Điều - 72 Bộ luật TTHS năm 2015 còn bổ sung quy định về Bào chữa viên nhân dân và quy định những người không được tham gia bào chữa khi tham gia vụ án đó với tư cách là “Người định giá tài sản”, “Người dịch thuật”; “Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xóa án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiên bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc”.
Điều 78 quy định cụ thể về thủ tục cấp đăng ký bào chữa. Đặc biệt quy định mới về việc thông báo bào chữa, từ chối bào chữa hoặc hủy bỏ việc đăng ký bào chữa cho cơ sở giam, giữ người bị bắt, người bị khởi tố, truy tố.
Ngoài ra, Bộ luật TTHS năm 2015 đã bổ sung một số quyền và cơ chế bảo đảm người bào chữa thực hiện tốt các quyền theo quy định của pháp luật tại các Điều 73, 79, 80, 81 và Điều 82.
Điều 74 quy định về Thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng cũng giống như những quy định trước đây là từ khi khởi tố bị can; Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ. Trường hợp cần giữ bí mật đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia từ khi kết thúc điều tra.
Đặc biệt, Bộ luật TTHS 2015 có quy định 01 điểm mới so với BLTTHS 2003 là quy định về “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố”tại Điều 83. Điều luật nhằm tạo điều kiện bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong giai đoạn tiền tố tụng, theo đó, ngay từ giai đoạn cơ quan công an giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, người bị tố giác đã có quyền có người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình. Người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị tố giác có thể là luật sư, bào chữa viên nhân dân, người đại diện, trợ giúp viên pháp lý. Người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị tố giác có quyền được đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; kiểm tra, đánh giá, trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá. Đặc biệt, Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có đầy đủ các quyền theo quy định tại khoản 3 - Điều 83 BLTTHS 2015. Song song đó, những người này cũng phải có những nghĩa vụ được quy định tại khoản 4 - Điều 83.
Tuy nhiên, Bộ luật TTHS 2015 lại chưa quy định cụ thể là Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố được tham gia từ thời điểm nào, từ khi cơ quan điều tra có giấy mời người bị tố giác tới làm việc hay từ khi Cơ quan điều tra có Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo tội phạm. Những người này có phải đăng ký với cơ quan điều tra hay không, nếu có thì thủ tục, thời hạn giải quyết và biểu mẫu như thế nào thì chưa có quy định. Với những quy định này thiết nghĩ các ngành chức năng cần có những hướng dẫn cụ thể hơn để quá trình áp dụng được thống nhất.