Cụ thể, BLHS năm 1999 quy định hành vi “…bằng các thủ đoạn trái pháp luật buộc người bị thẩm vấn phải khai sai sự thật gây hậu quả nghiêm trọng” còn BLHS năm 2015 quy định hành vi bị lý hình sự là “…sử dụng thủ đoạn trái pháp luật ép buộc người bị lấy lời khai, hỏi cung phải khai ra thông tin liên quan đến vụ án, vụ việc”. Như vậy, đối với Điều 299 BLHS năm 1999 hành vi chỉ cấu thành tội phạm khi người bị thẩm vấn bị ép khai sai sự thật, còn đối với Điều 374 BLHS 2015 thì kể cả việc “bức cung” để khai báo đúng sự thật vụ án, vụ việc cũng không được phép. Với quy định này, khả năng những người tiến hành tố tụng có thể phạm phải khi nôn nóng muốn điều tra vụ án nhưng bị can thì quanh co chối tội.
Ngoài ra, những vấn đề quy định mới đối với tội này còn có:
+ Mở rộng chủ thể của tội phạm: là “người nào trong hoạt động tố tụng” còn BLHS năm 1999 chỉ quy định “Người nào tiến hành điều tra, truy tố, xét xử”;
+ Cụ thể hóa trường hợp “gây hậu quả rất nghiêm trọng” ở khoản 2 bằng tình tiết “dẫn đến làm sai lệch kết quả khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” ở khoản 3 bằng các tình tiết “Làm người bị bức cung tự sát”, “Dẫn đến bỏ lọt tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng; Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng”; đồng thời bổ sung thêm các tình tiết định khung tăng nặng ở khoản 2 “Phạm tội 02 lần trở lên”, “Đối với 02 người trở lên”, “Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng”, “Dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung”, “Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt”, “Ép buộc người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung phải khai sai sự thật”.
+ Bổ sung một số tình tiết định khung tăng nặng ở khoản 4 (gồm “Làm người bị bức cung chết”, “Dẫn đến làm oan người vô tội”, “Dẫn đến bỏ lọt tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; người thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
+ Về hình phạt: Điều luật quy định hình phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm ở khoản 1; phạt tù từ 02 năm đến 07 năm ở khoản 2; thu hẹp khoảng cách khung hình phạt tù tại khoản 3 của điều luật xuống còn từ 07 năm đến 12 năm (trước đây là từ 05 năm đến 12 năm); Khoản 4 quy định hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân, so với Bộ luật Hình sự năm 1999, điều luật đã nâng mức hình phạt cao nhất ở khoản 4 lên tù chung thân; Khoản 5 quy định hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm./.