Hòa giải là một trong những nguyên tắc cơ bản của Tố tụng Dân sự. Tòa án có trách nhiệm hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án. Việc Tòa án tiến hành hòa giải là để cho các đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 hoặc theo thủ tục rút gọn của BLTTDS.
Về nguyên tắc tiến hành hòa giải: Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình; Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Điều 206 BLTTDS quy định 02 trường hợp những vụ án dân sự không được hòa giải là:
+ Yêu cầu bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước.
+ Những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội.
Điều 207 quy định 04 trường hợp những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được:
+ Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt.
+ Đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng.
+ Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự.
+ Một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải.
Như vậy, trong vụ án dân sự có nhiều đương sự, nếu có một đương sự là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đề nghị không tiến hành hòa giải thì có thuộc trong hợp vụ án dân sự không hòa giải được theo quy định tại khoản 4 - Điều 207 BLTTDS không?
Khoản 4 - Điều 207 BLTTDS quy định một trong các trường hợp vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được là: “Một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải”. Từ quy định này có thể nhận thấy, trường hợp người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án đề nghị không tiến hành hòa giải là trường hợp vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 - Điều 209 BLTTDS, nếu vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hòa giải và việc hòa giải không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của các đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành hòa giải giữa các đương sự có mặt; Nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hòa giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên hòa giải. Thẩm phán phải thông báo việc hoãn và việc mở lại phiên hòa giải cho đương sự.
Ngoài ra, theo quy định tại khoản 3 - Điều 212 BLTTDS, nếu các đương sự có mặt tại phiên hòa giải thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận đó có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Trường hợp thỏa thuận của họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của các đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải đồng ý bằng văn bảng.
Mặt khác, dù trong quá trình hòa giải các đương sự không thỏa thuận được với nhau nhưng tại phiên tòa vẫn có quyền thỏa thuận và vẫn phải đảm bảo các nguyên tắc hòa giải, quyền và nghĩa vụ của những người khác phải phù hợp theo quy định thì lúc này Hội đồng xét xử sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu đã thống nhất toàn bộ nội dung vụ án hoặc ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu chỉ thống nhất một phần của vụ án.