Lãi suất là một trong biến số kinh tế, là cái giá phải trả của khoản tiền vốn mà người vay đã nhận từ người cho vay hay gọi tắt là cái giá của việc sử dụng vốn. Lãi suất trong hợp đồng tín dụng của các ngân hàng thương mại là một khoản tiền mà khách hàng (người vay vốn) phải trả các cho người cho vay (ngân hàng) trong một thời kỳ nhất định. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại thường xuyên có sự thay đổi nên lãi suất sẽ được các khách hàng quan tâm, theo dõi chặt chẽ thông qua các phương tiện thông tin đại chúng bởi sự tác động của nó đến đời sống kinh tế đối với các cá nhân, tổ chức đã thực hiện việc vay vốn.
Đối với hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại, lãi suất sẽ được thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng bao gồm các loại lãi suất sau đây:
Thứ nhất, lãi suất trên nợ gốc trong hạn theo thỏa thuận của các bên.
Thứ hai, lãi suất nợ quá hạn của số tiền gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc nhưng không được vượt quá 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn. Lưu ý đối với phần lãi suất này, bên vay phải chịu khoản tiền lãi quá hạn tương ứng với số tiền gốc chưa thanh toán cho đến khi thanh toán xong.
Đối với trường hợp trong hợp đồng tín dụng có nội dung thỏa thuận về điều chỉnh lãi xuất cho vay theo từng thời kỳ, thì phải trên cơ sở mức lãi trong thời hạn vay mà ngân hàng thương mại đã điều chỉnh để tính lãi trong thời hạn vay từ thời điểm có điều chỉnh cho đến khi đến hạn, đồng thời phải trên cơ sở lãi suất điều chỉnh để xác định mức lãi phạt. Ví dụ, lãi suất trong hạn lúc đầu do hai bên thỏa thuận lãi trong thời hạn vay là 18 % năm, nhưng sau đó ngân hàng thương mại (bên cho vay) đã điều chỉnh lãi cho vay trong hạn theo hướng hạ thấp lãi suất chỉ xuống 10% năm thì kể từ thời điểm điều chỉnh mà thời hạn vay còn lại chỉ tính mức lãi suất là 10% cho đến khi kết thúc thời hạn vay. Tức là, lãi suất quá hạn sẽ là 150% của mức lãi 10% năm chứ không phải 18% năm như lúc đầu. Nếu còn trong thời hạn vay của hợp đồng tín dụng mà ngân hàng thương mại (bên cho vay) điều chỉnh lãi cho vay nhiều lần thì phải căn cứ từng thời điểm điều chỉnh để xác định số tiền lãi bên vay phải chịu.
Thứ ba, lãi suất phạt vi phạm, tức là phần lãi chậm trả khi khách hàng không trả đúng hạn phần lãi trong hạn. Lãi suất chậm trả sẽ do hai bên thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, có thể thấy, lãi suất, lãi suất nợ quá hạn và lãi suất quá hạn (phạt vi phạm) được quy định trong các Bộ luật Dân sự và các luật khác như: Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền (Điều 357), thỏa thuận phạt vi phạm (Điều 418), nghĩa vụ trả nợ của bên vay (Điều 466), lãi suất (Điều 468); Luật Các tổ chức tín dụng quy định lãi suất, phí trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng (Điều 91); Luật Thương mại quy định phạt vi phạm Điều 300, mức phạt vi phạm Điều 301.
Tuy đồng thời được quy định ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật, nhưng lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại không bị giới hạn ở mức lãi suất tối đa 20% của khoản tiền vay theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 hay Luật thương mại năm 2005. Bởi vì, hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại được điều chỉnh tại Luật Các tổ chức tín dụng 2010 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành, cụ thể như sau:
Một là, tại khoản 2 Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng 2010 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của ngân hàng thương mại theo quy định của pháp luật.
Hai là, lãi suất cho vay được hướng dẫn chi tiết tại Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định các ngân hàng thương mại và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay theo cung cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng, trừ trường hợp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có quy định về lãi suất cho vay tối đa trong một số lĩnh vực phục vụ lĩnh vực phát triển nông nghiệp, nông thôn, thực hiện phương án kinh doanh hàng xuất khẩu, phục vụ kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa, phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, phục vụ kinh doanh của doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Ba là, theo Quyết định số 1730/QĐ-NHNN năm 2020 quy định về mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam của ngân hàng thương mại đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế theo quy định tại Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/6/2016, ngoại trừ một số lĩnh vực khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số ngành nghề đặc thù theo quy định tại khoản 2 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/6/2016 mà theo đó ngân hàng thương mại chỉ được áp dụng mức cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam là 4,5%/năm thì trong các trường hợp khác hoạt động cho vay tiền giữa tổ chức tín dụng và khách hàng không bị giới hạn về hạn mức 20%/năm của khoản tiền vay theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015. Bên cạnh đó, theo điểm d khoản 3 Điều 14 Nghị định số 88/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định vi phạm về việc áp dụng lãi suất cấp tín dụng không đúng quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì các ngân hàng thương mại có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng.
Từ các quy định này, các ngân hàng thương mại và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất cho vay theo cung cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng, trừ trường hợp phải tuân thủ mức lãi suất cho vay tối đa do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định trong từng thời kỳ đối với cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam thuộc các lĩnh vực ưu tiên nêu trên. Cho nên, các quy định về lãi trong hạn, lãi quá hạn và lãi chậm trả (phạt vi phạm) cũng phù hợp và thống nhất với quy định tại Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 do được loại trừ thuộc trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Tức là, trường hợp luật khác có liên quan quy định khác của Bộ luật Dân sự năm 2015 có thể hiểu là nhằm để mở ra đối với hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại đã được quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng 2010 sửa đổi, bổ sung năm 2017 do đã được luật chuyên ngành điều chỉnh theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Các tổ chức tín dụng 2010 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định “Trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật này và các luật khác có liên quan về thành lập, tổ chức, hoạt động, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, giải thể tổ chức tín dụng... thì áp dụng theo quy định của Luật này”. Như vậy, việc áp dụng pháp luật, lãi suất cho vay bao gồm lãi trong hạn, lãi quá hạn và lãi chậm trả được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng phải trước tiên phải được hiểu và điều chỉnh theo Luật Các tổ chức tín dụng 2010, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Trong hoạt động xét xử khi xảy ra tranh chấp về lãi suất tại hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại và khách hàng, Tòa án nhân dân tối cao đã lựa chọn và công bố án Án lệ số 08/2016/AL về xác định lãi suất, việc điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng tín dụng kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm được công bố và áp dụng trong xét xử nhằm để thống nhất trong việc áp dụng pháp luật về lãi trong hợp đồng tín dụng của các ngân hàng thương mại. Tức là, trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về lãi suất cho vay, gồm: lãi suất cho vay trong hạn, lãi suất nợ quá hạn, việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng mà đến thời điểm xét xử sơ thẩm khách hàng vay chưa thanh toán, hoặc thanh toán không đủ số tiền nợ gốc, lãi theo hợp đồng tín dụng. Giải pháp pháp lý tại án lệ ghi nhận là khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho ngân hàng, tổ chức tín dụng khoản tiền nợ gốc chưa thanh toán, tiền lãi trên nợ gốc trong hạn (nếu có), lãi nợ quá hạn của số tiền gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh mức lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay.
Tiếp đến, ngày 11/1/2019, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP để hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm. Theo đó, tại Điều 8 của Nghị quyết có hướng dẫn như sau:
1. Đối với hợp đồng tín dụng xác lập trước ngày 01/01/2017 thì lãi trong hợp đồng được xác định bao gồm: Một là, lãi trên nợ gốc trong hạn chưa trả được xác định theo lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm xác lập hợp đồng, thời điểm tính lãi suất tương ứng với thời hạn vay chưa trả. Hai là, lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng phải phù hợp với quy định pháp luật về lãi suất áp dụng cho hợp đồng tín dụng tại thời điểm xác lập hợp đồng;
2. Đối với hợp đồng tín dụng xác lập kể từ ngày 01/01/2017 thì lãi trong hợp đồng được xác định bao gồm: Một là, lãi trên nợ gốc, lãi trên nợ gốc quá hạn được xác định theo như hợp đồng tín dụng xác lập trước ngày 01/01/2017 như trình bày trên. Hai là, trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi trên nợ gốc theo thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng, thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá mức lãi suất giới hạn mà pháp luật quy định tương ứng với thời gian chậm trả lãi trên nợ gốc trong hạn”.
Tuy nhiên, hướng dẫn của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP vẫn chưa rõ ràng về nội dung phạt vi phạm nên thực tiễn vẫn còn chưa thống nhất trong việc Tòa án chấp nhận hay không yêu cầu của ngân hàng thương mại về lãi phạt vi phạm nên vẫn còn có nhiều quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất: Tòa án không chấp nhận yêu cầu của ngân hàng đối với phần lãi phạt chậm trả vì cho rằng khi bên vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ đã phải chịu mức lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn trên nợ gốc nên không buộc phải chịu thêm mức phạt trên lãi quá hạn. Bởi vì theo điểm b khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP thì trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi trên nợ gốc theo thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng, thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá mức lãi suất giới hạn mà pháp luật quy định tương ứng với thời gian chậm trả lãi trên nợ gốc trong hạn”. Quy định không vượt quá mức lãi suất giới hạn mà pháp luật quy định nghĩa là không quá 150%, nhưng do ngân hàng đã tính lãi quá hạn bằng 150% nên không được phép tính thêm mức lãi phạt.
Quan điểm thứ hai: Tòa án chấp nhận yêu cầu của ngân hàng đối với các yêu cầu về gốc, lãi trong hạn, quá hạn và lãi phạt chậm trả. Bởi vì, theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, Thông tư số 39/2019/TT-NHNN thì hợp đồng giữa các bên đều có quy định về việc phạt vi phạm và tại điểm b khoản 2 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP cũng quy định trường hợp bên vay không trả đúng hạn tiền lãi trên nợ gốc theo thỏa thuận (lãi trong hạn và lãi quá hạn) thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá mức lãi suất giới hạn mà pháp luật quy định (mức phạt không quá 10% theo Điều 13 Thông tư số 39/2019/TT-NHNN). Do đó, bên vay phải chịu lãi trong hạn, quá hạn và lãi phạt.
Quan điểm thứ ba: Tòa án chỉ chấp nhận phần lãi phạt chậm trả tính trên số tiền lãi, trên nợ gốc trong hạn chứ không phải tính trên nợ lãi quá hạn như cách tính của ngân hàng đã yêu cầu. Vì theo điểm b khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP thì khi khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi trên nợ gốc theo thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng, thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá mức lãi suất giới hạn mà pháp luật quy định tương ứng với thời gian chậm trả lãi trên nợ gốc trong hạn. Cũng phù hợp với hướng dẫn tại điểm b khoản 2 Điều 5 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn về cách xác định lãi phạt chậm trả đối với hợp đồng vay không phải là hợp đồng tín dụng “Trường hợp chậm trả lãi trên nợ gốc trong hạn thì còn phải trả lãi trên nợ lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tại thời điểm trả nợ tương ứng với thời gian chậm trả tiền lãi trên nợ gốc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Cụ thể: Tiền lãi trên nợ lãi chưa trả = (nợ lãi chưa trả) x (lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tại thời điểm trả nợ) x (thời gian chậm trả tiền lãi trên nợ gốc).
Vậy, cần giải quyết lãi phạt chậm trả như thế nào cho đúng quy định pháp luật và thống nhất trong quá trình giải quyết các vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng. Trong phạm vi bình luận của bài viết, tác giả nghiêng về quan điểm thứ ba, đó là chấp nhận lãi phạt chậm trả nhưng được tính trên nợ lãi trong hạn chưa trả tương ứng với thời gian chậm trả tiền lãi trên nợ gốc, quan điểm này cũng phù hợp theo Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định nghĩa vụ trả lãi và nộp phạt vi phạm là hai vấn đề độc lập với nhau. Vì vậy, trường hợp các bên có sự thỏa thuận về lãi quá hạn, thỏa thuận phạt vi phạm thì bên vi phạm hợp đồng, chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền phải chịu lãi suất nợ quá hạn và bị phạt vi phạm theo quy định của pháp luật.