Nội dung bài viết: tội Đánh bạc được quy định tại Điều 321 Bộ luật Hình sự, trong đó việc xác định số tiền đánh bạc là một trong những căn cứ quan trọng nhất để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Đối với trường hợp bắt quả tang đối tượng tại sòng bài “số tiền sẽ dụng vào mục đích đánh bạc” có được tính trong số tiền đánh bạc hay không, hiện nay có 02 quan điểm về vấn đề trên: Đi vào phân tích điều luật trên thì:
- Quan điểm thứ nhất: Nghị quyết 01/2010 hướng dẫn tội Đánh bạc, Tổ chức đánh bạc hiện đã hết hiệu lực pháp luật nên cần áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành để xác định số tiền đánh bạc trong tội Đánh bạc. “Số tiền sẽ sử dụng vào mục đích đánh bạc” bản chất chưa sử dụng vào việc đánh bạc, việc người thực hiện hành vi phạm tội mới chỉ ở giai đoạn “chuẩn bị phạm tội”. Căn cứ các quy định về chuẩn bị phạm tội được quy định tại Điều 14 Bộ luật Hình sự thì người phạm tội Đánh bạc trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự nên “Số tiền sẽ sử dụng vào mục đích đánh bạc” sẽ không được tính vào số tiền đánh bạc.
- Quan điểm thứ hai: Điều 14 Bộ luật Hình sự quy định: “Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm, trừ trường hợp thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của Bộ luật này ’’. Đối với số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc, người phạm tội không những “đã chuẩn bị” và còn đã mang đến nơi đánh bạc vào có ý định sẽ sử dụng vào mục đích đánh bạc, việc chưa đánh bạc được có thể do bị lực lượng chức năng bắt quả tang hoặc quá trình tham gia trước đó thắng nên chưa sử dụng hết toàn bộ tiền có dự định sẽ đánh bạc nên cần xác định “số tiền sẽ sử dụng vào mục đích đánh bạc” vẫn được tính vào số tiền đánh bạc.
Tác giả Hồng Quốc Vệ đồng tình với quan điểm thứ hai do thực tiễn xử lý tội phạm trên, nếu chỉ xác định số tiền “đã và đang đánh bạc” là số tiền đánh bạc để xem xét trách nhiệm người phạm tội, thì sẽ rất khó để xử lý đối với tội phạm này. Đối với số tiền đã đánh bạc là số tiền người phạm tội dùng đánh bạc trong quá khứ, chứng cứ để chứng minh số tiền này chủ yếu chỉ có lời khai của người phạm tội … không có những chứng cứ khác để xem xét tính phù hợp để đảm bảo nguyên tắc “không được dùng lời khai duy nhất của người phạm tội làm chứng cứ buộc tội”. Đối với số tiền đang đánh bạc chủ yếu là số tiền mà các người tham gia đánh bạc đặt dùng ăn thua với nhau ở ván bạc tại thời điểm lực lượng chức năng bắt quả tang, số tiền này ngoài lời khai phạm tội, thì cũng có thể có những chứng cứ khác chứng minh như lời khai những người cùng tham gia có khai ván đó người phạm tội đặt cược bao nhiêu tiền, biên bản bắt quả tang hoặc biên bản sự việc thể hiện lực lượng chức năng có thu giữ tiền mà người đánh bạc có đặt ở ván đó …, tuy nhiên số tiền này chỉ thể hiện được số tiền đánh bạc ở một ván. Nếu chỉ căn cứ số tiền “đã và đang đánh bạc” làm căn cứ xác định số tiền đánh bạc thì sẽ chưa xử lý triệt để, toàn diện được hết hành vi mà người phạm tội thực hiện và mong muốn thực hiện.
Qua nghiên cứu bài viết trao đổi nghiệp vụ nêu trên, tôi xin có quan điểm trao đổi như sau:
Tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất như đã phân tích trên, ngoài ra còn có các lý do sau:
- Một là, nếu xác định “tiền sẽ sử dụng vào mục đích đánh bạc” làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ không công bằng đối với các đối tượng cùng chơi khác.
Ví dụ: có 4 người cùng chơi bài cào làm cái xoay vòng, có 3 mang theo 6.000.000 đồng, còn 1 người mang theo 50.000.000 đồng bỏ trong túi quần sẽ dùng đánh bạc, như vậy cả 4 người sẽ bị truy cứu theo khoản 2 Điều 321 BLHS. Như vậy 03 bị cáo còn lại phải chịu trách nhiệm chung với số tiền bị cáo kia mang theo trong người, suy cho cùng là chịu trách nhiệm với ý định phạm tội của bị cáo mang theo tiền nhiều.
- Hai là, nếu nói về nguyên tắc “không được dùng lời khai duy nhất của người phạm tội làm chứng cứ buộc tội” thì không xem “số tiền sẽ sử dụng vào mục đích đánh bạc” để truy cứu trách nhiệm hình sự thì phù hợp hơn. Bởi vì, chỉ có lời khai duy nhất của bị cáo là khai sẽ dùng tiền này để đánh bạc, không có chứng cứ nào khác là bị cáo có sử dụng hay không (bị cáo chưa rút tờ tiền nào trong một cọc tiền trong túi quần), nếu chỉ căn cứ lời khai của bị cáo mà chuyển khung hình phạt như vậy sẽ không vững chắc. Thực tế hiện nay, rất ít bị cáo khai mang tiền theo sẽ sử dụng để đánh bạc hết.
Trên đây là ý kiến trao đổi, rất mong được bạn đọc chia sẻ quan điểm của mình về vấn đề nêu trên!