Theo quy định tại Điều 86 Bộ luật Tố tụng Hình sự (TTHS), thì chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.
Để thu thập được chứng cứ phải thông qua nguồn chúng cứ, nguồn chứng cứ theo quy định tại Điều 87 Bộ luật TTHS bao gồm: Vật chứng; Lời khai, lời trình bày; Dữ liệu điện tử; Kết luận giám định, định giá tài sản; Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác; Các tài liệu, đồ vật khác.
Thu thập chứng cứ theo quy định tại Điều 88 Bộ luật TTHS năm 2015 có 03 loại chủ thể có quyền thu thập chứng cứ, đó là:
- Cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án;
- Người bào chữa;
- Những người tham gia tố tụng khác: bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào biết về vụ án.
Tuy nhiên không phải việc thu thập chứng cứ của người bào chữa, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều được sử dụng để làm chứng cứ. Việc thu thập chứng cứ của những chủ thể này chỉ có thể dùng làm chứng cứ buộc tội hoặc gỡ tội khi tuân theo trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định. Nghĩa là, chứng cứ sau khi thu thập phải được chuyển giao cho cơ quan tiến hành tố tụng bằng biên bản giao nhận và phải được đưa vào hồ sơ vụ án (trừ những chứng cứ không thể đưa vào hồ sơ nhưng phải chụp ảnh để lưu vào hồ sơ vụ án) - Ở giai đoạn điều tra thì chuyển giao cho Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Ở giai đoạn truy tố thì chuyển giao cho Viện kiểm sát; Ở giai đoạn xét xử thì chuyển giao cho Tòa án.
Đặc biệt, điểm mới căn bản của Bộ luật TTHS năm 2015 quy định việc thu thập chứng cứ được thực hiện như sau:
Nếu người bào chữa, cơ quan, tổ chức, cá nhân chuyển giao chứng cứ cho Cơ quan điều tra, thì trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên bản giao nhận chứng cứ Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án. Trường hợp do trở ngại khách quan thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày. Trong thời hạn 03 ngày, Viện kiểm sát đóng dấu bút lục và sao lưu biên bản, tài liệu lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng tài liệu, biên bản đó cho Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Việc giao, nhận tài liệu, biên bản được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật TTHS;
Nếu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp thu thập chứng cứ mà Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm sát, thì trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày thu thập chứng cứ, tài liệu, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển chứng cứ, tài liệu này cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án. Trường hợp do trở ngại khách quan thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày. Trong thời hạn 03 ngày, Viện kiểm sát đóng dấu bút lục và sao lưu chứng cứ, tài liệu lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng chứng cứ, tài liệu đó cho Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Việc giao, nhận chứng cứ, tài liệu được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật Bộ luật TTHS;
Nếu những chứng cứ, tài liệu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp thu thập chứng cứ mà Kiểm sát viên trực tiếp kiểm sát thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không cần phải chuyển giao chứng cứ, tài liệu cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án.
Do đó, vai trò của Viện kiểm sát trong việc thu thập chứng cứ là rất quan trọng, chỉ những chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án có giá trị pháp lý và được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án khi được Viện kiểm sát đóng dấu bút lục. Ngược lại những chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án không được Viện kiểm sát đóng dấu bút lục sẽ bị coi là không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án cho dù chứng cứ, tài liệu đó có được đưa vào hồ sơ vụ án cũng không có giá trị pháp lý.
Tuy nhiên, cách thức đánh bút lục như thế nào, đánh bút lục ở vị trí nào trên tài liệu, biên bản đã được thu thập thì cần phải có sự thống nhất hướng dẫn của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao. Hiện nay Bộ luật TTHS năm 2015 đã có hiệu lực trên 01 tháng nhưng vẫn chưa được các ngành Trung ương hướng dẫn về vấn đề này, thiết nghĩ liên ngành Trung ương cần sớm ban hành Thông tư liên tịch quy định thống nhất về việc đánh bút lục trong Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án và việc đánh bút lục trong hồ sơ vụ án hình sự./.