Theo tổng thể các quy định hiện hành, bị đơn là người từ đủ 60 tuổi trở lên trong vụ án dân sự KHÔNG được miễn án phí theo điểm đ khoản 2 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án (sau đây gọi là Nghị quyết 326). Lý do cụ thể như sau:
1. Điểm đ khoản 2 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định:
“2. Người được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí, án phí, lệ phí Tòa án bao gồm:
...
đ) Người cao tuổi theo quy định của Luật người cao tuổi;...”
2. Phạm vi áp dụng miễn án phí:
Quy định miễn án phí tại điểm đ khoản 2 Nghị quyết 326 chỉ áp dụng khi người cao tuổi là người khởi kiện (nguyên đơn) hoặc người có yêu cầu độc lập, bị đơn có yêu cầu phản tố, người yêu cầu giải quyết việc dân sự.
Khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 (BLTTDS 2015) quy định nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm:
“1. Nguyên đơn, người yêu cầu giải quyết việc dân sự phải nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp. Trường hợp không phải nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí thì vẫn phải chịu án phí, lệ phí Tòa án nếu không thuộc trường hợp được miễn.”
Khoản 2 Điều 147 BLTTDS 2015 quy định:
“2. Bị đơn, người có nghĩa vụ liên quan có yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập phải nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí đối với yêu cầu đó, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp.”
Điều 26 Nghị quyết 326 quy định về việc miễn án phí cho người được miễn (trong đó có người cao tuổi) khi họ là người phải nộp án phí theo quy định tại các Điều 147, 148, 149 và 150 của BLTTDS 2015.
3. Áp dụng cho bị đơn là người cao tuổi:
- Khi người cao tuổi là bị đơn (không có yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập), họ không phải là người khởi kiện (nguyên đơn).
- Nghĩa vụ nộp tạm ứng án phí và chịu án phí chính thức phát sinh chủ yếu từ phía nguyên đơn (người khởi kiện). Bị đơn chỉ phải nộp tạm ứng án phí/nộp án phí nếu họ có yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập (theo khoản 2 Điều 147 BLTTDS 2015).
- Trường hợp bị đơn không có yêu cầu phản tố hay yêu cầu độc lập:
+ Họ không phải nộp tạm ứng án phí.
+ Án phí cuối cùng họ phải chịu (nếu bị tuyên thua kiện) không phải là nghĩa vụ phát sinh từ việc họ “khởi kiện” hay “yêu cầu”, mà là hệ quả của việc Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Do đó, không thuộc đối tượng được áp dụng quy định miễn án phí tại điểm đ khoản 2 Nghị quyết 326 (vốn dành cho người khởi kiện/yêu cầu).
+ Họ vẫn phải chịu án phí theo phần nghĩa vụ của mình nếu thua kiện, và không được miễn dựa trên tiêu chí là người cao tuổi.
Kết luận:
1. Bị đơn là người từ đủ 60 tuổi trở lên (người cao tuổi) sẽ KHÔNG được miễn án phí nếu họ thua kiện và Tòa án buộc họ phải chịu án phí dân sự.
2. Quy định miễn án phí tại điểm đ khoản 2 Nghị quyết 326 chỉ áp dụng khi người cao tuổi là:
- Nguyên đơn (người khởi kiện vụ án).
- Người yêu cầu giải quyết việc dân sự.
- Người có yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập (dù ở vị trí bị đơn hay người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan).
Tóm lại: Nếu bị đơn là người cao tuổi đồng thời có yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập, thì đối với phần yêu cầu phản tố/độc lập đó, họ sẽ được miễn án phí (bao gồm cả tạm ứng án phí và án phí phải nộp nếu thắng kiện phần yêu cầu của mình). Việc miễn án phí cho bị đơn (nếu có) phải dựa trên các căn cứ khác như thuộc hộ nghèo, người khuyết tật,... nếu đủ điều kiện, chứ không dựa riêng tiêu chí là người cao tuổi khi họ chỉ là bị đơn không có yêu cầu.
Việc quy định bị đơn là người cao tuổi (từ đủ 60 tuổi trở lên) vẫn phải chịu án phí khi thua kiện (dù không được miễn án phí theo điểm đ khoản 2 Nghị quyết 326/2016) mang những ý nghĩa pháp lý và xã hội sâu sắc, thể hiện sự cân bằng giữa các nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự và chính sách bảo vệ nhóm yếu thế. Cụ thể:
1. Bảo đảm nguyên tắc “bên thua kiện phải chịu án phí”
- Công bằng tố tụng: Án phí là nghĩa vụ tài chính gắn liền với kết quả vụ án. Người vi phạm nghĩa vụ (dẫn đến thua kiện) phải gánh chịu chi phí tố tụng. Việc miễn án phí chỉ áp dụng cho người chủ động khởi kiện/yêu cầu (nguyên đơn, người yêu cầu) thuộc diện đặc biệt (người cao tuổi, hộ nghèo...), không áp dụng cho người bị động (bị đơn) khi họ thua kiện.
- Răn đe, trách nhiệm: Quy định này buộc bị đơn (dù là người cao tuổi) phải có trách nhiệm với hành vi của mình. Nếu họ vi phạm nghĩa vụ dân sự (không trả nợ, không trả tài sản...), việc phải chịu án phí là hệ quả tất yếu, khuyến khích họ tuân thủ pháp luật và tự giải quyết tranh chấp trước khi ra tòa.
2. Phân biệt rõ giữa “quyền tiếp cận công lý” và “nghĩa vụ tài chính do vi phạm”
- Bảo vệ quyền khởi kiện: Việc miễn án phí cho nguyên đơn là người cao tuổi nhằm dỡ bỏ rào cản tài chính, giúp họ dễ dàng tiếp cận Tòa án để bảo vệ quyền lợi. Đây là chính sách ưu việt hỗ trợ người yếu thế chủ động bảo vệ mình.
- Không bảo vệ hành vi vi phạm: Ngược lại, bị đơn là người bị kiện do bị cho rằng đã vi phạm nghĩa vụ. Miễn án phí cho họ vô tình tạo sự bất công cho nguyên đơn và làm suy yếu tính răn đe của pháp luật. Việc họ phải chịu án phí khi thua kiện là hệ quả công bằng của việc không thực hiện nghĩa vụ.
3. Ngăn ngừa lạm dụng chính sách xã hội:
- Nếu miễn án phí cho mọi bị đơn là người cao tuổi, kể cả khi họ vi phạm pháp luật, sẽ tạo kẽ hở để lợi dụng.
- Người cao tuổi có thể được lựa chọn làm “bình phong” trong các giao dịch dân sự rủi ro nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài chính (án phí, bồi thường).
- Làm giảm hiệu quả của chính sách hỗ trợ, khiến ngân sách nhà nước (vốn dùng để bù đắp án phí miễn) phải gánh chịu chi phí cho cả hành vi vi phạm pháp luật.
4. Bảo đảm tính khả thi của hệ thống tư pháp
- Án phí là nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước, góp phần chi trả cho hoạt động tố tụng. Việc mở rộng diện miễn án phí quá rộng (bao gồm cả bị đơn thua kiện) sẽ ảnh hưởng đến nguồn lực tài chính của Tòa án, gián tiếp tác động đến chất lượng giải quyết vụ án.
5. Cân bằng giữa chính sách xã hội và nguyên tắc pháp lý
- Nhà nước vẫn có cơ chế bảo vệ người cao tuổi khi họ chủ động bảo vệ quyền lợi (qua việc miễn án phí khi họ là nguyên đơn, người yêu cầu).
- Khi họ ở vị trí bị đơn, pháp luật tôn trọng nguyên tắc tự chịu trách nhiệm và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nguyên đơn. Nếu bị đơn cao tuổi thuộc hộ nghèo hoặc có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, họ có thể xin miễn/giảm án phí hoặc đề nghị Tòa án xem xét giảm nghĩa vụ trả án phí dựa trên tình tiết cụ thể.
Như vậy, việc không miễn án phí cho bị đơn là người cao tuổi (khi không có yêu cầu phản tố) thể hiện sự cân bằng giữa 3 mục tiêu: Hỗ trợ người yếu thế chủ động bảo vệ quyền lợi; Bảo đảm công bằng và trách nhiệm pháp lý của bên vi phạm nghĩa vụ; Duy trì tính nghiêm minh và hiệu quả của hệ thống tư pháp.
Quy định này khẳng định: Chính sách ưu đãi xã hội không đồng nghĩa với việc miễn trừ nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật.
Trương Bảo Trân
VKSND Khu vực 13 - Cần Thơ