Ngày 27/6/2025, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự (sau đây gọi tắt là Luật sửa đổi, bổ sung BLTTHS 2025), có hiệu lực từ 01/7/2025. Luật sửa đổi, bổ sung BLTTHS 2025 có quy định nhiều điểm mới quan trọng trong từng giai đoạn tố tụng hình sự (điều tra, truy tố, xét xử), cụ thể như sau:
1. Về mở rộng thẩm quyền tiến hành hoạt động điều tra
Khoản 2 Điều 35 của BLTTHS, bổ sung thêm nhiều lực lượng được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Cụ thể, các chức danh của Bộ đội Biên phòng (Trưởng Ban Chỉ huy biên phòng, Đồn trưởng, Ban chỉ huy Cửa khẩu cảng), Hải quan (Chi cục trưởng Đội chống buôn lậu, Chi cục trưởng kiểm tra sau thông quan…) và các lực lượng khác như Kiểm lâm, Cảnh sát biển, Kiểm ngư đều được liệt kê rõ trong điểm a đến điểm e khoản 2 Điều 35 của BLTTHS.
2. Về giao thẩm quyền điều tra cho lực lượng Công an cấp xã
Bổ sung khoản 1a Điều 37 của BLTTHS, theo đó “Điều tra viên trung cấp, cao cấp là Trưởng Công an cấp xã hoặc Phó Trưởng Công an cấp xã được Thủ trưởng cơ quan điều tra cấp tỉnh phân công tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra vụ án về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng xảy ra trên địa bàn cấp xã” (trừ các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt).
Đây là quy định hoàn toàn mới so với quy định của BLTTHS 2015.
3. Về thẩm quyền ra lệnh tạm giam
Sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 1 Điều 113 của BLTTHS (quy định người có quyền ra lệnh, quyết định tạm giam): ngoài Thủ trưởng/Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, bổ sung “Điều tra viên thuộc trường hợp quy định tại khoản 1a Điều 37” (tức là Trưởng hoặc Phó Trưởng Công an xã theo quy định nêu trên).
4. Về hồ sơ vụ án hình sự và chữ ký của người ban hành văn bản tố tụng
Bổ sung khoản 5 vào sau khoản 4 Điều 131 của BLTTHS như sau: “Hồ sơ vụ án được lập bằng văn bản giấy hoặc được số hóa theo quy định. Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết khoản này”.
Bổ sung khoản 3 vào sau khoản 2 Điều 132 của BLTTHS như sau: “Chữ ký của người ban hành văn bản tố tụng là chữ ký trực tiếp hoặc chữ ký số. Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết khoản này”.
5. Về thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng, qua nền tảng số, phần mềm ứng dụng dùng chung triển khai tại Trung tâm dữ liệu quốc gia, cổng thông tin hoặc trang thông tin điện tử của cơ quan tiến hành tố tụng
Sửa đổi bổ sung Điều 141 như sau:
“1. Việc thông báo văn bản tố tụng trên phương tiện thông tin đại chúng, qua nền tảng số, phần mềm ứng dụng dùng chung triển khai tại Trung tâm dữ liệu quốc gia, cổng thông tin hoặc trang thông tin điện tử của cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện khi việc niêm yết công khai không có kết quả hoặc các trường hợp khác theo quy định của pháp luật;
2. Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng được đăng trên báo hàng ngày của trung ương trong 03 số liên tiếp và phát sóng trên Đài Phát thanh hoặc Đài Truyền hình của trung ương ba lần trong 03 ngày liên tiếp. Thời điểm để tính thời hạn tố tụng là ngày kết thúc việc thông báo;
3. Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết Điều này”.
6. Về quy định mới về kết luận điều tra khi bị can vắng mặt
Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 233 của BLTTHS cho phép cơ quan điều tra “kết luận điều tra đề nghị truy tố bị can” ngay khi đã có đủ chứng cứ và đảm bảo quyền bào chữa cho bị can, trong các trường hợp sau:
(a) bị can trốn hoặc không rõ ở đâu, truy nã không có kết quả;
(b) bị can đang ở nước ngoài không thể triệu tập để phục vụ các hoạt động điều tra.
Khoản 3 tương ứng quy định phải niêm yết kết luận điều tra trong 2 ngày nếu không thể giao được cho bị can.
7. Về thẩm quyền truy tố
Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 239 của BLTTHS: “Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định việc truy tố là Viện kiểm sát đã thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Thẩm quyền truy tố của Viện kiểm sát được xác định theo thẩm quyền xét xử của Tòa án”.
Theo đó, Viện kiểm sát đã kiểm sát điều tra vụ án thì chịu trách nhiệm truy tố; trường hợp ngoài thẩm quyền, phải chuyển ngay vụ án cho VKS có thẩm quyền.
8. Về quyết định truy tố và cáo trạng
Bổ sung khoản 2 Điều 243 của BLTTHS quy định các nội dung quan trọng. Điểm đáng chú ý nhất là cho phép Viện kiểm sát có thể quyết định truy tố bị can trong trường hợp bị can đã trốn hoặc ở nước ngoài mà không thể triệu tập. Trong trường hợp này, trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra cáo trạng đối với trường hợp bị can vắng mặt, cáo trạng phải được niêm yết nếu không giao được cho bị can.
9. Về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án và xét xử vắng mặt bị cáo
Sửa đổi, bổ sung của Điều 268 BLTTHS để quy định rõ hơn về thẩm quyền xét xử ở cấp sơ thẩm. Theo đó, Tòa án nhân dân khu vực xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng mà khung hình phạt cao nhất đến 20 năm tù. Đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử những vụ án không thuộc thẩm quyền Tòa án nhân dân khu vực hoặc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân khu vực nhưng có tình tiết đặc biệt phức tạp, dư luận quan tâm, tác động chính trị - đối ngoại, hoặc bị cáo là cán bộ chủ chốt từ cấp tỉnh trở lên, chức sắc tôn giáo, người có uy tín cao trong cộng đồng dân tộc thiểu số.
Bên cạnh đó, sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 269 của BLTTHS như sau: “Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam thì Tòa án nhân dân nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước xét xử theo thẩm quyền. Nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị cáo thì tùy từng trường hợp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho một Tòa án nhân dân khu vực thuộc Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, thành phố Đà Nẵng hoặc Thành phố Hồ Chí Minh hoặc giao cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, thành phố Đà Nẵng hoặc Thành phố Hồ Chí Minh xét xử; Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử theo quyết định của Chánh án Tòa án quân sự trung ương”.
Đồng thời cũng sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 2 Điều 290 của BLTTHS cho phép Tòa án được xét xử vắng mặt trong trường hợp bị cáo bỏ trốn hoặc không biết bị cáo ở đâu và việc truy nã không có kết quả. Đây là quy định mới bổ sung cho các trường hợp xét xử vắng mặt.
10. Quy định về thẩm quyền xét xử phúc thẩm và thời hạn xét xử phúc thẩm
Sửa đổi về thẩm quyền xét xử phúc thẩm tại khoản 1 và khoản 2 Điều 344 của BLTTHS như sau:
“1. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án nhân dân khu vực bị kháng cáo, kháng nghị;
2. Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị.”.
Đồng thời sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 346 của BLTTHS như sau:
“1. Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án; trường hợp xét xử vụ án về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt đến 20 năm tù thì thời hạn mở phiên tòa phúc thẩm là 90 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án; Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự trung ương phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án.”
11. Về thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 373 của BLTTHS quy định về thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm như sau:
“1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh; bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
3. Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân khu vực trong phạm vi tỉnh, thành phố”.
12. Về thẩm quyền giám đốc thẩm
Sửa đổi, bổ sung Điều 382 của BLTTHS quy định về thẩm quyền giám đốc thẩm như sau:
“1. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm năm Thẩm phán đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự trung ương bị kháng nghị;
2. Hội đồng toàn thể Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật quy định tại khoản 1 Điều này nhưng có tính chất phức tạp hoặc bản án, quyết định đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm năm Thẩm phán nhưng không thống nhất khi biểu quyết thông qua quyết định về việc giải quyết vụ án. Khi Hội đồng toàn thể Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia, do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao làm chủ tọa phiên tòa. Quyết định của Hội đồng toàn thể Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng số thành viên Hội đồng biểu quyết tán thành; nếu không được quá nửa tổng số thành viên của Hội đồng toàn thể Thẩm phán tán thành thì phải hoãn phiên tòa. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa thì Hội đồng toàn thể Thẩm phán phải mở phiên tòa xét xử lại vụ án;
3. Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực bị kháng nghị. Khi xét xử giám đốc thẩm thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên của Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương tham gia, do Chánh án Tòa án quân sự trung ương làm chủ tọa phiên tòa. Quyết định của Ủy ban Thẩm phán phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành; nếu không được quá nửa tổng số thành viên của Ủy ban Thẩm phán tán thành thì phải hoãn phiên tòa. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa thì Ủy ban Thẩm phán phải mở phiên tòa xét xử lại vụ án;
4. Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân khu vực bị kháng nghị. Khi xét xử giám đốc thẩm thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh tham gia, do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh làm chủ tọa phiên tòa. Quyết định của Ủy ban Thẩm phán phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành; nếu không được quá nửa tổng số thành viên của Ủy ban Thẩm phán tán thành thì phải hoãn phiên tòa. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ra quyết định hoàn phiên tòa thì Ủy ban Thẩm phán phải mở phiên tòa xét xử lại vụ án;
5. Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị thuộc thẩm quyền giám đốc thẩm của các cấp khác nhau thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm toàn bộ vụ án.”
13. Về thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 400 của BLTTHS như sau:
“3. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân khu vực thuộc phạm vi tỉnh, thành phố”.
Trên đây là tóm tắt một số nội dung mới cơ bản của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2025.
Trương Thanh Tình
VKSND Khu vực 12 - Cần Thơ