Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là một trong những căn cứ quan trọng để Tòa án đánh giá khách quan, toàn diện khi quyết định mức hình phạt cụ thể đối với người phạm tội.
Trước đây, các “tình tiết khác” có thể coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần chung của Bộ luật Hình sự năm 1999[1]. Tuy nhiên, nghị quyết này đã hết hiệu lực kể từ ngày 08/10/2021 theo Quyết định số 355/QĐ-TANDTC ngày 08/10/2021 của Tòa án nhân dân tối cao về việc công bố danh mục văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ thuộc lĩnh vực của Tòa án nhân dân tối cao.
Để bảo đảm việc áp dụng đúng và thống nhất các quy định tại Điều 51 và Điều 52 của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14, Luật số 59/2024/QH15 và Luật số 86/2025/QH15 (gọi tắt là Bộ luật Hình sự), ngày 30/9/2025, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 04/2025/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 và Điều 52 của Bộ luật Hình sự (gọi tắt là Nghị quyết số 04/2025/NQ-HĐTP).
Nghị quyết số 04/2025/NQ-HĐTP quy định rõ ràng, đầy đủ, chi tiết hơn về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự; đồng thời đưa ra nhiều ví dụ cụ thể tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự. Điều này góp phần nâng cao tính công bằng, minh bạch và nhân đạo trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự.
Tại Điều 3 của Nghị quyết số 04/2025/NQ-HĐTP đã liệt kê 09 trường hợp về “tình tiết khác” có thể được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cụ thể:
1. Người phạm tội đầu thú là trường hợp sau khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện, người phạm tội tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình.
2. Người phạm tội tự nguyện nộp lại ít nhất một phần hai số tiền thu lợi bất chính từ hành vi phạm tội hoặc tiền phạt bổ sung theo bản án, quyết định của Tòa án.
3. Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu, chống dịch.
4. Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế được cấp có thẩm quyền xác nhận, nhưng vì lý do khách quan chưa kê khai đề nghị nên chưa có Huân chương, Huy chương.
5. Người phạm tội có mẹ hoặc bà được Nhà nước tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng; có cha, mẹ, ông, bà được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
6. Người phạm tội có cha, mẹ được tặng thưởng nhiều giấy khen, bằng khen về những thành tích xuất sắc trong công tác.
7. Người bị hại hoặc người đại diện của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho người phạm tội trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khoẻ của người bị hại hoặc gây thiệt hại về tài sản.
8. Người bị hại cũng có lỗi hoặc thiệt hại do lỗi của người thứ ba.
9. Người phạm tội có từ 03 con nhỏ trở lên đều dưới 15 tuổi hoặc có con bị khuyết tật nặng trở lên, bị bệnh hiểm nghèo mà vợ, chồng không có công ăn việc làm, gia đình khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận.
Đáng chú ý, Nghị quyết số 04/2025/NQ-HĐTP đã bổ sung thêm trường hợp “Người phạm tội có từ 03 con nhỏ trở lên đều dưới 15 tuổi hoặc có con bị khuyết tật nặng trở lên, bị bệnh hiểm nghèo mà vợ, chồng không có công ăn việc làm, gia đình khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận” có thể được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác.
Việc bổ sung tình tiết này thể hiện tính nhân đạo và khoan hồng của pháp luật, tạo điều kiện để người phạm tội sớm tái hòa nhập cộng đồng, tiếp tục thực hiện trách nhiệm chăm sóc gia đình; góp phần bảo vệ quyền con người và quyền trẻ em, đồng thời phù hợp với thực tiễn và chính sách xã hội trong giai đoạn hiện nay.

Ảnh minh họa (nguồn Internet)
Ngoài các tình tiết nêu trên, Tòa án có thể coi tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án (khoản 10 Điều 3 Nghị quyết số 04/2025/NQ-HĐTP).
Tuy nhiên, việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ khác cần phải được xem xét thận trọng, chặt chẽ, áp dụng một cách linh hoạt tùy vào tính chất, đặc điểm của từng trường hợp cụ thể, tránh tùy tiện; từ đó đưa ra mức hình phạt phù hợp, vừa thể hiện tính nhân đạo và khoan hồng của Nhà nước, vừa đảm bảo tuân thủ pháp luật, tính minh bạch và thống nhất trong xét xử.
Nghị quyết số 04/2025/NQ-HĐTP đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 30/9/2025 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/11/2025.
Link tải Nghị quyết số 04/2025/NQ-HĐTP:https://vbpq.toaan.gov.vn/webcenter/portal/htvb/chi-tiet?dDocName=TAND368345
[1] Các tình tiết được coi là các tình tiết giảm nhẹ khác theo hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP, gồm:
- Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, người mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước:
- Bị cáo là thương binh hoặc có người thân thích như vợ, chồng, cha, mẹ, con (con đẻ hoặc con nuôi), anh, chị, em ruột là liệt sỹ;
- Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;
- Người bị hại cũng có lỗi;
- Thiệt hại do lỗi của người thứ ba;
- Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo;
- Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khoẻ của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản;
- Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu.
Hồng Ngân
Văn phòng VKSND thành phố Cần Thơ